其實住在越南的越南人,不知道他們自己法條的多的是,住不住越南和知不知道越南法規,這兩個不是正相關,他們有一個系統會公告,性質像會議紀錄,又像公佈欄,但遠比台灣的全國法規資料庫難用。 我是從fb上的越南電子報,常常會貼出一些文件UBND或HĐND知道的,HBND是Ủy ban nhân dân 人民委員會的縮寫,也就是他們的行政單位,類似台灣的縣市政府,冠上HBND的文件幾乎是行政命令。而HĐND是Hội đồng nhân dân 人民大會的縮寫,也就是他們的監督單位,類似台灣的縣市議會,冠上HĐND的文件幾乎就是法律或條例。格式大概就10/2020/NQ-HĐND,代表2020年10月國民大會的公告文件。
Gần đây tần suất quay video thực sự quá thấp, do đặt quá nhiều trọng tâm vào việc livestream. Có lẽ các bạn cảm thấy không có gì để quay hoặc không biết nên quay gì, và cũng có thể nghĩ rằng quay rồi cũng không có ai xem. Cơ chế của TH-cam là nếu để quá lâu, tần suất xuất hiện trên đề xuất cũng sẽ thấp hơn. Khán giả lại vì không có cảm giác tham gia ngay lập tức, nên không có sự gắn kết. Cách quay hiện tại cũng giống như viết nhật ký, khán giả mới gần như không thể giữ chân được. Do vòng xoáy tiêu cực này, không có khán giả mới tham gia, số người xem livestream cũng rất khó tăng. Trên TH-cam, xây nhà/mua nhà thực sự là một chủ đề rất hay. Đã tốn nhiều tiền như vậy, nhưng lại không quay lại cẩn thận để kiếm thêm từ quảng cáo, thật sự quá uổng phí. Có lẽ bạn sẽ thắc mắc, cách quay như viết nhật ký là gì? Thông thường, việc truyền tải nội dung đến khán giả được chia thành hai phương thức: "phim điện ảnh" và "phim truyền hình". Phim điện ảnh thường kéo dài khoảng 1 đến 2 giờ, nhưng mỗi lần sẽ có đầy đủ thời gian, tên nhân vật, mối quan hệ giữa các nhân vật, địa điểm xảy ra, nguyên nhân sự kiện, quá trình sự kiện, kết quả, toàn bộ nội dung được đưa ra một lần. Ví dụ nổi tiếng nhất mà tôi có là cặp vợ chồng Ukraine này, quá trình xây nhà kéo dài 24 phút. Chỉ với video này, trên TH-cam đã có hơn 63 triệu lượt xem, Số tiền kiếm được đã gấp 5 lần số tiền họ bỏ ra để xây nhà, với chi phí xây nhà khoảng 17.000 USD (tương đương 423 triệu đồng). th-cam.com/video/OpIRhkTOPAI/w-d-xo.html Cách quay như phim truyền hình, mỗi tập thường kéo dài từ 12 đến 20 phút, Thời gian giãn cách giữa mỗi tập video được tải lên sẽ không quá lâu, trong vòng 3 ngày phải có một chủ đề nhỏ, trong vòng 5 tập sẽ giới thiệu tên nhân vật, mối quan hệ giữa các nhân vật, địa điểm, xảy ra một cách kín đáo. Và ngay cả những phát hiện nhỏ, không phổ biến, đều sẽ xoay quanh chủ đề nhỏ đó, không để kéo dài thời lượng mà đưa quá nhiều chủ đề nhỏ vào một tập. Những ví dụ nổi tiếng hiện nay về loạt phim xây nhà như "貝加爾阿楠" (người Trung Quốc xây nhà gần hồ Baikal ở Nga), "越南小松" (người Trung Quốc xây nhà ở Vũ Lăng, Yên Bình, Yên Bái, nhưng trên TH-cam toàn là người khác đăng lại), "老撾媳婦小依". Còn việc quay cảnh xây nhà của Ví Ví hay Bé Phương/Hoa Hoa, đều là quay ngẫu hứng, lâu lâu mới đi tuần một lần, giống như du khách đến ngắm cảnh nhà mình. Tên nhân vật, mối quan hệ giữa các nhân vật, địa điểm xảy ra, quá trình sự kiện... không được nói rõ, khán giả chỉ cảm nhận được "có một ngôi nhà xây dở". Giống như bạn đang đi trên đường và Bé Phương đột nhiên nói "ở kia có người bán trà sữa", hoàn toàn không có cảm xúc gì. Rõ ràng là có cơ hội để khán giả tham gia nhiều hơn, chẳng hạn như gần đây các ngân hàng ở Đài Loan đang thắt chặt tín dụng nhà đất, tức là có nhiều người có số tiền gấp 7 lần số tiền bạn đã bỏ ra để xây nhà, rồi lại muốn vay ngân hàng thêm 13 lần số tiền đó, để tìm một ngôi nhà giống như của bạn nhưng không thể được. Giá một ngôi nhà ở Đài Loan giống như của bạn, có giá trị bằng cả một ngôi làng của bạn (20 ngôi nhà), tạo sự đồng cảm của người Đài Loan. Về việc học tiếng Anh, cá nhân tôi không mấy lạc quan về việc này vì hiện nay công nghệ hỗ trợ giao tiếp đã quá phát triển. Hơn nữa, tiếng Trung của bạn chỉ ở mức có thể du học, đủ để tìm việc làm, nhưng để thực sự giao tiếp chuyên nghiệp, bạn còn cần phải tìm hiểu thêm rất nhiều tài liệu tiếng Trung. Như trong video dưới đây, bạn nghĩ rằng anh ấy đang xen kẽ rất nhiều từ tiếng Anh, nhưng thực ra anh ấy đang nói tiếng Trung mà bạn không hiểu, liên quan đến tiếng Anh chỉ một chút, giống như người Việt Nam thường dùng "k" để viết tắt cho "Không" vậy. th-cam.com/video/4SQaDpIgo2E/w-d-xo.html
Ồ, Ví Ví chưa nói đến, tôi thật sự đã quên mất một thắc mắc mà tôi đã muốn hỏi từ lâu rồi. Tại các trường đại học ở Đài Loan, áp dụng hệ thống tín chỉ, tùy thuộc vào từng ngành học mà số tín chỉ tốt nghiệp dao động từ 128 đến 140 tín chỉ. Sau đó, các môn học lại được phân thành "Môn bắt buộc chuyên ngành", "Môn tự chọn chuyên ngành" và "Môn học đại cương". Môn bắt buộc chuyên ngành đúng như tên gọi, bạn học ngành này thì không thể tránh khỏi môn học này; môn tự chọn chuyên ngành là môn mà bạn có thể học hoặc không, nếu cảm thấy không cần thiết. Ví dụ như ở khoa Ngoại ngữ tại Đài Loan, tiếng Anh là môn bắt buộc chuyên ngành, còn tiếng Nhật, tiếng Đức, tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha... thì nằm trong danh mục môn tự chọn chuyên ngành. Sinh viên ngành Ngoại ngữ khi tốt nghiệp có thể thông thạo tiếng Anh và tiếng Nhật, nhưng không biết tiếng Đức, tiếng Pháp và tiếng Tây Ban Nha, hoặc có thể biết tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha nhưng không hiểu tiếng Nhật, tiếng Đức và tiếng Pháp. Còn môn học đại cương là các môn học mà sinh viên của bất kỳ ngành nào cũng có thể đăng ký học. Một tín chỉ nghĩa là một học kỳ có 18 tuần, mỗi tín chỉ tương ứng với số giờ học tối thiểu mỗi tuần, và để tốt nghiệp đại học, chỉ cần đáp ứng yêu cầu về số tín chỉ tốt nghiệp của ngành học. Hiện tượng tại Đài Loan là mức độ bận rộn giảm dần theo từng năm. Có thể là trong học kỳ đầu và cuối của năm nhất, sinh viên lấy 20+20=40 tín chỉ, năm hai lấy thêm 18+18=36 tín chỉ, năm ba lấy 18+16=34 tín chỉ, còn năm tư là nhàn rỗi nhất, chỉ khoảng 18 tín chỉ. Cả năm tư của tôi, mỗi tuần chỉ có 6 giờ học, và phần lớn sinh viên Đài Loan năm tư đều bận rộn chuẩn bị thi vào cao học hoặc thực tập tại các doanh nghiệp. Tôi thấy ở Việt Nam thì lại sắp xếp đều đều hàng năm, nếu phải chuẩn bị thi cử, thực tập hoặc ứng tuyển việc làm thì sẽ cực kỳ bận rộn vào năm tư. Tôi luôn muốn hỏi là, đại học ở Việt Nam không áp dụng hệ thống tín chỉ mà là hệ thống niên chế phải không? Hệ thống niên chế có nghĩa là thời gian học, học những kỹ năng gì, sinh viên không thể lựa chọn, mà đều do nhà trường sắp xếp, học môn nào vào năm nào cũng là do nhà trường quyết định. 喔,薇薇沒講到,我還真忘了有一陣子想問的這個疑問了,在台灣的大學是採學分制,依科系不同,畢業學分在128~140學分,然後課程又有分「專業必修」、「專業選修」、「通識課」。專業必修就如同字面上,你學這個科系,你就不能避開這個課;專業選修就是你學這個科系,但這門課你非常覺得沒有用,學不學都可以,舉例來說,在台灣的外文系,英文就是專業必修,日文、德文、法文、西班牙文..就都在開課在專業選修,外文系的學生,畢業時就可能英文及日文都會,德文、法文、西班牙文不會,或是英文及西班牙文都會,卻不懂日文、德文和法文。而通識課,就是不管那個科系的學生都可以去上的課。一個學分的意思是一個學期有18週,每學分就是每星期最低要上課的小時數量,而大學要畢業,滿足科系畢業學分的要求即可。 在台灣的現象,忙碌程度是逐漸減少的,可能是大一上下學期就拿到20+20=40學分,大二再拿18+18=36,大三再拿18+16=34,大四最閒,只有18學分左右。我的大四一整年,每週只有上課6小時,有很大一部份的台灣學生,大四都在準備研究所考試或是企業實習。我看越南卻變成每年安排的差不多,若要準備考試、實習或應徵就業,就會大四超級忙。我一直想問的就是,越南的大學不是學分制,而是學年制嗎?所謂學年制就是什麼時間上課、學什麼技能,學生無法選擇,學校都安排好,什麼課在幾年級上,都是學校說了算。
有一說每一萬觀看10美金,也有一說是1千觀看2美金,反正這種業餘、沒連續式拍片的賺錢效應比他們直播低,所以她們每個中文youtuber全都在搞唱歌跳舞,不是什麼專案在募資,這樣很難真正接到大筆的業配/代言(小羊/阮饅頭最近都接到全家的業配了),唱歌跳舞也頂多幾年,年紀大了就很難當正職。 她們現在正花了很多時間在學中英文,卻不知道千辛萬苦學會的語言優勢,正在被科技取代,真正該加強的統計學(實驗設計)、財務管理(利率部分)都看不出進度,我看了很焦急啊😢 ,其實我沒去越南文補習班補過習,我只知道30%~40%的用字,但我靠科技(非估歌翻譯)寫出的越南文已經能讓她們知道我想說什麼 th-cam.com/users/shortsxDLV2V6p8lk Có người nói rằng cứ mỗi 10.000 lượt xem thì kiếm được 10 đô la Mỹ, cũng có người nói là 1.000 lượt xem kiếm được 2 đô la Mỹ. Dù sao thì hiệu quả kiếm tiền của những người làm TH-cam nghiệp dư, không quay video liên tục thấp hơn so với khi họ phát trực tiếp, vì vậy mỗi TH-camr nói tiếng Hoa đều đang thử hát và nhảy múa. Họ không thực sự kêu gọi vốn cho dự án nào, nên rất khó để nhận được các hợp đồng tài trợ hoặc quảng cáo lớn (như Tiểu Dương và Nguyễn Màn Thầu gần đây đã nhận được quảng cáo từ FamilyMart). Hát và nhảy múa cũng chỉ kéo dài được vài năm, khi lớn tuổi thì khó có thể làm nghề này lâu dài. Hiện tại, họ đang dành rất nhiều thời gian để học tiếng Trung và tiếng Anh, nhưng họ không biết rằng lợi thế ngôn ngữ mà họ vất vả học được đang dần bị công nghệ thay thế. Những kỹ năng quan trọng hơn mà họ thực sự cần cải thiện, như thống kê học (thiết kế thí nghiệm) và quản lý tài chính (phần lãi suất), thì lại không thấy có tiến bộ gì, điều này khiến tôi rất lo lắng 😢. Thực ra tôi chưa bao giờ học thêm tiếng Việt ở trung tâm nào, tôi chỉ biết khoảng 30% đến 40% từ vựng, nhưng nhờ vào công nghệ (không phải Google dịch), tôi đã có thể viết tiếng Việt để họ hiểu được tôi muốn nói gì.
因為他們的租屋、僱工人,都是用Thuê,越南的「僱工人施工」可以翻譯為「Thuê nhân công xây dựng」(直譯:租.工人.建.搭)或「Thuê công nhân thi công(直譯:租.工人.施工)」。租房子叫Thuê nhà(直譯:租.家)。 註:僱是動詞、雇是形容詞,簡體字則通用,不過大多台灣人也不分了。
好 太厲害了👍👍👍
1.)薇薇姊妹們蓋的新家,我是從她們祭拜後開始除雜草起就持續看這房子慢慢蓋起來直到現在這麼好的居住模樣,這樣經濟實惠能住得很舒服相當不容易了,有像薇薇這樣孝順的女兒們是其母親的福氣.2.)在越南能花這麼少的錢就能蓋出這麼好的房子實屬不易,也是薇薇精打細算的成果,相較之下,像我在台北及加拿大溫哥華都有大樓和別墅的人看來簡直太划算了.祝妳們生活過得越來越好.
謝謝你
不容易、精打細算是真的,但她們有因為預算不足忍受很多事,還稱不上很舒服。她們房子坐東朝西,西曬會頗嚴重;附近的鄰居連廁所都蓋不起來,離她們廚房太近,一個不注意,為充分加熱殺菌,就會有風化的微糞顆粒沾染食物致病的可能性;附近房屋和背面的山坡都緊貼,通風就不是太好,薇薇媽媽的健康意識也不好,不知道待在僅比體溫低5度的不通風室內,也就是31.5度,超過8小時,就可能發生室內中暑。背面山坡還有滑坡撞進房內的風險,像這樣:th-cam.com/video/9pY0ZX1sFUA/w-d-xo.htmlm48s
น่ารักมากเลยสาวเวียดนาม
3:46 😂😂😂
別啦😅😅
後院要鋪紅磚~石板片~碎石~種草皮~這樣腳上的泥巴才不會踩進屋內喔~
咱來找茬,希望對你有用:1.僱人蓋房子 2.裝房門 3.家具中那個應該是 衣櫃 吧?4.煮菜煮飯這件事,我是稱呼為 開火 5.媽媽在炒的不是竹子,應該是竹筍 吧?6.單獨在院子裡面另外蓋一個廚房是很好的主意 7.是早上(shang)不是早喪(sang),這個字顯然是跟台灣老師學的,前面應該也有這種情況,前面關注劇情有點疏忽了,一會早上一會早喪,大陸老師和台灣老師同時授課?呵呵
恭喜蓋大厝
Hello ❤❤❤❤❤
this is KOREA 🇰🇷 .
加油🎉🎉🎉
後面要鋪水泥才不會把泥土帶進屋裏才不会髒ok加油
我覺得可以在旁邊的空地種一點菜
想吃的話就可以自己採來吃
嗯嗯
烤火因為火力比瓦斯爐強,所以炒出來的菜會比較香
並沒有火力比較大,紅色火焰200℃-350℃,橙色350℃-460℃,黃色460℃-570℃,
黃白色570℃-740℃,白色740℃-1150℃,藍白色1150℃-2500℃,藍色>2500℃。瓦斯爐常常有藍焰,在加熱上效果是比較好的。
正因為火力不夠大,所以才會有焦香味,這主要是因為,所謂梅納反應是食物中的「還原糖」、「胺基酸」與「蛋白質」在加熱時所發生的一連串化學反應。舉例來說,原本肉粉色的生牛排,在下鍋高溫煎煮時,牛排的表面會因為產生梅納反應,所以變成深褐色,麵包表皮烤成褐色也是、荷包蛋微焦都是。
梅納反應的最佳溫度範圍在138°C~179°C之間,電鍋將溫度調高到能產生深褐色鍋巴時,也能做出鑄鐵鍋燒柴煮飯的效果。
越南薇薇狠漂亮哦!!!
謝謝
👍👍👍🥳🥳
❤❤❤❤🎉🎉🎉
比我一格平面車位還便宜......
我笑好大聲 每次薇薇拍視頻 都有蟲子來咬你
哈哈為什麼呢🥹🥹
@@yuenanweiwei 因為薇薇妳香啊😊🤣🥰
อร่อยหรือเปล่าครับผมคนสวย
#應該是10億(VND)=128W(TWD),
#不是100億(越南盾);
#100億(VND)=1280W(TWD)!!
🤣🤣🤣🤣🤣🤣🤣🤣
😂😂😂😂😂😂 薇薇目前小學還沒畢業🎓
@@small-duck520
#鴨董,#須你的贊助。。。
😘😘😘😘😘😘😘😘
我個人認為這是越南典型的很鄉下的農村😊 這個價錢我計算一下其實不貴 便宜 , 但是這個是我 台灣人的眼光去衡量的 如果在越南的話 我是覺得 他們那裡的人 就不會說便宜了🤭 因為兩個地區的差別在於薪資跟物價😊 越南 我從北到南 都去旅行過了, 包括那個富國島 也是去的4次 渡假吧, 第一次看你的視頻😊 覺得你中文 很流利 感覺 有來過台灣 工作吧,? 因為大部分你這個年紀的越南女人 來台灣 不是工作就是來念書的, 你的口音 沒有捲舌音 應該是來台灣學台灣腔的, 而且看你的字幕是繁體中文, 今年我去了一趟半個月的越南旅行, 感覺呢 南越是變化不大啦😊 河內我已經好多年沒去了不曉得😊 越南是共產黨的社會, 土地不是國家的嗎? 你們也是像 大陸一樣 跟國家 租土地 幾十年 然後自己蓋房子 這樣子喔😊
越南這十年,最激烈變化的是省級市,也就是在老街省中的老街市,而不是河內或胡志明市這種直轄市。她們太原大學老街分校,曾經有一個台灣老師,你可以去越南雙胞胎頻道,找一下2022年底到2023年初,都有那位台灣人的身影,所以她的口音比較接近台灣(其實福建的中國人,口音跟台灣也差不多),但若是去老街一位叫阿萍的中國人,她所開的私人中文補習班上課,教出來的學生口音就很中國。
另外,越南土地也一直在修法,土地是國家的基本原則上沒錯,但也有些變成越南私人產權,你常聽到的紅皮書、粉紅書,就是在講這一類的事。
紅皮書是由自然資源與環境部頒發的表格,封面為紅色,土地使用權的內容(可能是住宅用地,農地,花園,池塘,林地......)此表格稱為「土地使用權證書」。根據2003年「土地法」第4條第20款的規定:土地使用權證是國家主管機關為保護土地使用者的合法權益而頒發給土地使用者的證明。土地使用。也就是你所謂的用租的,在有使用權土地上任意蓋房子,越南普遍還無法可管,紅皮書的土地被國家收回,補償不足地上物價值,你也只能自認倒霉
粉紅書是由建設部發布的表格,粉紅色封面,所有權和住宅用地使用權,形式稱為「住房和權利所有權證書」。使用住宅用地。根據2005年「住房法」第11條,住宅房屋所有權證書按照以下規定發給業主。也就是所謂的永久產權,國家要徵用你的土地,那地上物可就要照市價賠償了
勇憲兄沒來看過她們直播呀 她們以前的老師是台灣老師 現在直播接觸的大哥們90%是台灣人 所以都是台灣的文法用詞 今天她們特休 週六固定公休 不然日到五的越南時間 19:30 會有直播喔 歡迎來看播 看她們唱歌跳舞聊天
@@陳彥任-h6o 我真不知道🤔 是看到他的視頻 好像她出錢 蓋房子的樣子, 也是第一次看到他的視頻 以為他是嫁來台灣回去蓋房子的🤭🤭🤭 因為很多越南 女人嫁來台灣 都是這樣子的🤭🤭🤭 賺到錢就回去蓋房子🤭
@@benimaruhou429 嗯了解,謝謝,您 一定和我朋友一樣在越南生活過 , 要不然, 越南法條, 您還這麼熟悉。🤭👍
其實住在越南的越南人,不知道他們自己法條的多的是,住不住越南和知不知道越南法規,這兩個不是正相關,他們有一個系統會公告,性質像會議紀錄,又像公佈欄,但遠比台灣的全國法規資料庫難用。
我是從fb上的越南電子報,常常會貼出一些文件UBND或HĐND知道的,HBND是Ủy ban nhân dân 人民委員會的縮寫,也就是他們的行政單位,類似台灣的縣市政府,冠上HBND的文件幾乎是行政命令。而HĐND是Hội đồng nhân dân 人民大會的縮寫,也就是他們的監督單位,類似台灣的縣市議會,冠上HĐND的文件幾乎就是法律或條例。格式大概就10/2020/NQ-HĐND,代表2020年10月國民大會的公告文件。
沒看到微微+豆豆的房間
我有拍的
薇薇❤真是漂亮❤、好美❤喔~~~請問你會到台灣工作嗎?哈哈哈
謝謝
抱歉了 西門
Gần đây tần suất quay video thực sự quá thấp, do đặt quá nhiều trọng tâm vào việc livestream. Có lẽ các bạn cảm thấy không có gì để quay hoặc không biết nên quay gì, và cũng có thể nghĩ rằng quay rồi cũng không có ai xem. Cơ chế của TH-cam là nếu để quá lâu, tần suất xuất hiện trên đề xuất cũng sẽ thấp hơn. Khán giả lại vì không có cảm giác tham gia ngay lập tức, nên không có sự gắn kết. Cách quay hiện tại cũng giống như viết nhật ký, khán giả mới gần như không thể giữ chân được. Do vòng xoáy tiêu cực này, không có khán giả mới tham gia, số người xem livestream cũng rất khó tăng.
Trên TH-cam, xây nhà/mua nhà thực sự là một chủ đề rất hay. Đã tốn nhiều tiền như vậy, nhưng lại không quay lại cẩn thận để kiếm thêm từ quảng cáo, thật sự quá uổng phí. Có lẽ bạn sẽ thắc mắc, cách quay như viết nhật ký là gì? Thông thường, việc truyền tải nội dung đến khán giả được chia thành hai phương thức: "phim điện ảnh" và "phim truyền hình".
Phim điện ảnh thường kéo dài khoảng 1 đến 2 giờ, nhưng mỗi lần sẽ có đầy đủ thời gian, tên nhân vật, mối quan hệ giữa các nhân vật, địa điểm xảy ra, nguyên nhân sự kiện, quá trình sự kiện, kết quả, toàn bộ nội dung được đưa ra một lần. Ví dụ nổi tiếng nhất mà tôi có là cặp vợ chồng Ukraine này, quá trình xây nhà kéo dài 24 phút. Chỉ với video này, trên TH-cam đã có hơn 63 triệu lượt xem, Số tiền kiếm được đã gấp 5 lần số tiền họ bỏ ra để xây nhà, với chi phí xây nhà khoảng 17.000 USD (tương đương 423 triệu đồng). th-cam.com/video/OpIRhkTOPAI/w-d-xo.html
Cách quay như phim truyền hình, mỗi tập thường kéo dài từ 12 đến 20 phút, Thời gian giãn cách giữa mỗi tập video được tải lên sẽ không quá lâu, trong vòng 3 ngày phải có một chủ đề nhỏ, trong vòng 5 tập sẽ giới thiệu tên nhân vật, mối quan hệ giữa các nhân vật, địa điểm, xảy ra một cách kín đáo. Và ngay cả những phát hiện nhỏ, không phổ biến, đều sẽ xoay quanh chủ đề nhỏ đó, không để kéo dài thời lượng mà đưa quá nhiều chủ đề nhỏ vào một tập. Những ví dụ nổi tiếng hiện nay về loạt phim xây nhà như "貝加爾阿楠" (người Trung Quốc xây nhà gần hồ Baikal ở Nga), "越南小松" (người Trung Quốc xây nhà ở Vũ Lăng, Yên Bình, Yên Bái, nhưng trên TH-cam toàn là người khác đăng lại), "老撾媳婦小依".
Còn việc quay cảnh xây nhà của Ví Ví hay Bé Phương/Hoa Hoa, đều là quay ngẫu hứng, lâu lâu mới đi tuần một lần, giống như du khách đến ngắm cảnh nhà mình. Tên nhân vật, mối quan hệ giữa các nhân vật, địa điểm xảy ra, quá trình sự kiện... không được nói rõ, khán giả chỉ cảm nhận được "có một ngôi nhà xây dở". Giống như bạn đang đi trên đường và Bé Phương đột nhiên nói "ở kia có người bán trà sữa", hoàn toàn không có cảm xúc gì. Rõ ràng là có cơ hội để khán giả tham gia nhiều hơn, chẳng hạn như gần đây các ngân hàng ở Đài Loan đang thắt chặt tín dụng nhà đất, tức là có nhiều người có số tiền gấp 7 lần số tiền bạn đã bỏ ra để xây nhà, rồi lại muốn vay ngân hàng thêm 13 lần số tiền đó, để tìm một ngôi nhà giống như của bạn nhưng không thể được. Giá một ngôi nhà ở Đài Loan giống như của bạn, có giá trị bằng cả một ngôi làng của bạn (20 ngôi nhà), tạo sự đồng cảm của người Đài Loan.
Về việc học tiếng Anh, cá nhân tôi không mấy lạc quan về việc này vì hiện nay công nghệ hỗ trợ giao tiếp đã quá phát triển. Hơn nữa, tiếng Trung của bạn chỉ ở mức có thể du học, đủ để tìm việc làm, nhưng để thực sự giao tiếp chuyên nghiệp, bạn còn cần phải tìm hiểu thêm rất nhiều tài liệu tiếng Trung. Như trong video dưới đây, bạn nghĩ rằng anh ấy đang xen kẽ rất nhiều từ tiếng Anh, nhưng thực ra anh ấy đang nói tiếng Trung mà bạn không hiểu, liên quan đến tiếng Anh chỉ một chút, giống như người Việt Nam thường dùng "k" để viết tắt cho "Không" vậy.
th-cam.com/video/4SQaDpIgo2E/w-d-xo.html
我剛剛暑假結束,再去上課了,最後一年的大學生很忙,不是我不想拍視頻
Ồ, Ví Ví chưa nói đến, tôi thật sự đã quên mất một thắc mắc mà tôi đã muốn hỏi từ lâu rồi. Tại các trường đại học ở Đài Loan, áp dụng hệ thống tín chỉ, tùy thuộc vào từng ngành học mà số tín chỉ tốt nghiệp dao động từ 128 đến 140 tín chỉ. Sau đó, các môn học lại được phân thành "Môn bắt buộc chuyên ngành", "Môn tự chọn chuyên ngành" và "Môn học đại cương". Môn bắt buộc chuyên ngành đúng như tên gọi, bạn học ngành này thì không thể tránh khỏi môn học này; môn tự chọn chuyên ngành là môn mà bạn có thể học hoặc không, nếu cảm thấy không cần thiết. Ví dụ như ở khoa Ngoại ngữ tại Đài Loan, tiếng Anh là môn bắt buộc chuyên ngành, còn tiếng Nhật, tiếng Đức, tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha... thì nằm trong danh mục môn tự chọn chuyên ngành. Sinh viên ngành Ngoại ngữ khi tốt nghiệp có thể thông thạo tiếng Anh và tiếng Nhật, nhưng không biết tiếng Đức, tiếng Pháp và tiếng Tây Ban Nha, hoặc có thể biết tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha nhưng không hiểu tiếng Nhật, tiếng Đức và tiếng Pháp. Còn môn học đại cương là các môn học mà sinh viên của bất kỳ ngành nào cũng có thể đăng ký học. Một tín chỉ nghĩa là một học kỳ có 18 tuần, mỗi tín chỉ tương ứng với số giờ học tối thiểu mỗi tuần, và để tốt nghiệp đại học, chỉ cần đáp ứng yêu cầu về số tín chỉ tốt nghiệp của ngành học.
Hiện tượng tại Đài Loan là mức độ bận rộn giảm dần theo từng năm. Có thể là trong học kỳ đầu và cuối của năm nhất, sinh viên lấy 20+20=40 tín chỉ, năm hai lấy thêm 18+18=36 tín chỉ, năm ba lấy 18+16=34 tín chỉ, còn năm tư là nhàn rỗi nhất, chỉ khoảng 18 tín chỉ. Cả năm tư của tôi, mỗi tuần chỉ có 6 giờ học, và phần lớn sinh viên Đài Loan năm tư đều bận rộn chuẩn bị thi vào cao học hoặc thực tập tại các doanh nghiệp. Tôi thấy ở Việt Nam thì lại sắp xếp đều đều hàng năm, nếu phải chuẩn bị thi cử, thực tập hoặc ứng tuyển việc làm thì sẽ cực kỳ bận rộn vào năm tư. Tôi luôn muốn hỏi là, đại học ở Việt Nam không áp dụng hệ thống tín chỉ mà là hệ thống niên chế phải không? Hệ thống niên chế có nghĩa là thời gian học, học những kỹ năng gì, sinh viên không thể lựa chọn, mà đều do nhà trường sắp xếp, học môn nào vào năm nào cũng là do nhà trường quyết định.
喔,薇薇沒講到,我還真忘了有一陣子想問的這個疑問了,在台灣的大學是採學分制,依科系不同,畢業學分在128~140學分,然後課程又有分「專業必修」、「專業選修」、「通識課」。專業必修就如同字面上,你學這個科系,你就不能避開這個課;專業選修就是你學這個科系,但這門課你非常覺得沒有用,學不學都可以,舉例來說,在台灣的外文系,英文就是專業必修,日文、德文、法文、西班牙文..就都在開課在專業選修,外文系的學生,畢業時就可能英文及日文都會,德文、法文、西班牙文不會,或是英文及西班牙文都會,卻不懂日文、德文和法文。而通識課,就是不管那個科系的學生都可以去上的課。一個學分的意思是一個學期有18週,每學分就是每星期最低要上課的小時數量,而大學要畢業,滿足科系畢業學分的要求即可。
在台灣的現象,忙碌程度是逐漸減少的,可能是大一上下學期就拿到20+20=40學分,大二再拿18+18=36,大三再拿18+16=34,大四最閒,只有18學分左右。我的大四一整年,每週只有上課6小時,有很大一部份的台灣學生,大四都在準備研究所考試或是企業實習。我看越南卻變成每年安排的差不多,若要準備考試、實習或應徵就業,就會大四超級忙。我一直想問的就是,越南的大學不是學分制,而是學年制嗎?所謂學年制就是什麼時間上課、學什麼技能,學生無法選擇,學校都安排好,什麼課在幾年級上,都是學校說了算。
我是跟蹤看來阿楠蓋房子的全過程,那三個哥們的手藝真的讓咱驚歎,從來沒有見過蓋房子的過程,更別說木頭房子……忘記他們最終花了多少錢,真的像您說的,那麼多集的房子視頻點閱率不低,不無小補,時間久了徹底回本都可能……
有一說每一萬觀看10美金,也有一說是1千觀看2美金,反正這種業餘、沒連續式拍片的賺錢效應比他們直播低,所以她們每個中文youtuber全都在搞唱歌跳舞,不是什麼專案在募資,這樣很難真正接到大筆的業配/代言(小羊/阮饅頭最近都接到全家的業配了),唱歌跳舞也頂多幾年,年紀大了就很難當正職。
她們現在正花了很多時間在學中英文,卻不知道千辛萬苦學會的語言優勢,正在被科技取代,真正該加強的統計學(實驗設計)、財務管理(利率部分)都看不出進度,我看了很焦急啊😢 ,其實我沒去越南文補習班補過習,我只知道30%~40%的用字,但我靠科技(非估歌翻譯)寫出的越南文已經能讓她們知道我想說什麼
th-cam.com/users/shortsxDLV2V6p8lk
Có người nói rằng cứ mỗi 10.000 lượt xem thì kiếm được 10 đô la Mỹ, cũng có người nói là 1.000 lượt xem kiếm được 2 đô la Mỹ. Dù sao thì hiệu quả kiếm tiền của những người làm TH-cam nghiệp dư, không quay video liên tục thấp hơn so với khi họ phát trực tiếp, vì vậy mỗi TH-camr nói tiếng Hoa đều đang thử hát và nhảy múa. Họ không thực sự kêu gọi vốn cho dự án nào, nên rất khó để nhận được các hợp đồng tài trợ hoặc quảng cáo lớn (như Tiểu Dương và Nguyễn Màn Thầu gần đây đã nhận được quảng cáo từ FamilyMart). Hát và nhảy múa cũng chỉ kéo dài được vài năm, khi lớn tuổi thì khó có thể làm nghề này lâu dài.
Hiện tại, họ đang dành rất nhiều thời gian để học tiếng Trung và tiếng Anh, nhưng họ không biết rằng lợi thế ngôn ngữ mà họ vất vả học được đang dần bị công nghệ thay thế. Những kỹ năng quan trọng hơn mà họ thực sự cần cải thiện, như thống kê học (thiết kế thí nghiệm) và quản lý tài chính (phần lãi suất), thì lại không thấy có tiến bộ gì, điều này khiến tôi rất lo lắng 😢. Thực ra tôi chưa bao giờ học thêm tiếng Việt ở trung tâm nào, tôi chỉ biết khoảng 30% đến 40% từ vựng, nhưng nhờ vào công nghệ (không phải Google dịch), tôi đã có thể viết tiếng Việt để họ hiểu được tôi muốn nói gì.
@@benimaruhou429 的確,即使是只是視頻,她們的點擊率也是真的不多……那個阿楠,以前也看過他的視頻,追她老婆的過程,追到之後我就沒再看了,但他給丈母娘蓋木頭房子又吸引我回去了,蓋房子的視頻每集都看了……她們幾個小妹妹似乎沒有團隊,只是幾個小姑娘娛樂而已,有點可惜
租人家這說法很奇怪,應該是雇吧。
因為他們的租屋、僱工人,都是用Thuê,越南的「僱工人施工」可以翻譯為「Thuê nhân công xây dựng」(直譯:租.工人.建.搭)或「Thuê công nhân thi công(直譯:租.工人.施工)」。租房子叫Thuê nhà(直譯:租.家)。
註:僱是動詞、雇是形容詞,簡體字則通用,不過大多台灣人也不分了。
@@benimaruhou429 所以我們台灣人,聽她說租人家感覺很奇怪。
雇 與 僱 在台灣使用的區分:明確區分名詞與動詞的使用。例如:名詞「雇員、雇主、雇工」用【雇】;動詞「僱用、聘僱」用【僱】。因此越文”租工人”使用繁體中文譯法:為了省錢,材料我們自己買,然後僱用一群雇工(工人)來蓋我們的新房子。(工程術語叫僱工不帶料) 《===野人獻曝,供美麗勤簡的薇薇參考
你們說的話有點深了,她看中文字沒那強
你真漂亮
謝謝你
天花板 ? 是地板吧 !
我说错了
因為 薇薇在家都倒立... 所以他的天花板是 地板 ~~~~~
地磚才對,木頭的才叫地板
@@small-duck520鴨董穿裙子的話👗⋯⋯不能倒立😂、會走光😆
@@追風-p1w😂😂😂😂 在家沒穿都可以😂😂😂
在台灣的越南人講中文都有一種腔調~妳反而不太有呢!
是的她們姊妹們完全沒腔調很厲害 歡迎來直播間跟他們聊天 她們"聽讀說"很強
謝謝