Vấn Đáp Những Câu Hỏi Khó Trong Cuộc Sống - Pháp Thoại Thầy Thích Pháp Hòa

แชร์
ฝัง
  • เผยแพร่เมื่อ 4 ต.ค. 2024
  • Vấn Đáp Những Câu Hỏi Khó Trong Cuộc Sống - Pháp Thoại Thầy Thích Pháp Hòa
    Thầy Thích Pháp Hòa Canada
    𝐊ê𝐧𝐡 𝐘𝐨𝐮𝐭𝐮𝐛𝐞 đă𝐧𝐠 𝐭ả𝐢 𝐯𝐢𝐝𝐞𝐨 𝐜𝐡í𝐧𝐡 𝐭𝐡ứ𝐜 về tất cả bài giảng của 𝐓𝐡ầ𝐲 𝐓𝐡í𝐜𝐡 𝐏𝐡á𝐩 𝐇ò𝐚
    Mời Đại Chúng Bấm Vào Nút "Đăng Ký '' Hoặc - Like - Comment - Để Theo Dõi Thêm Video Mới Nhất
    Tu Viện Trúc Lâm
    11328 - 97 Street
    Edmonton, AB, T5G 1X4
    Canada
    Phone (780) 471-1093
    Fax (780) 471-5394
    Email: tvtruclam97@gmail.com
    Thầy Trụ Trì Thích Pháp Hòa sinh năm 1974 tại Cần Thơ, Việt Nam.
    Định cư tại Canada năm 12 tuổi, xuất gia năm 15 tuổi.
    Thọ Tỳ-kheo tại Pháp Quốc năm 20 tuổi.
    Thầy tiếp nhận trách vụ trụ trì TV. Trúc Lâm năm 2006 và TV. Tây Thiên 2007.
    Tu Viện Trúc Lâm là cơ sở đầu tiên của Viện Phật Học được thành lập tại thành phố Edmonton vào tháng 6 năm 1989. Sinh hoạt của Tu Viện hầu hết là các chương trình tu học theo truyền thống Phật Giáo Việt Nam. Vì cơ sở này là văn phòng chính của viện nên một số sinh hoạt khác của các ban ngành như văn hóa, giáo dục, xã hội, gia đình Phật tử… cũng tạm dùng cơ sở này. Cơ sở Tu Viện Trúc Lâm lúc mới khai sinh tọa lạc tại 10604-108 Street, là một tòa nhà 3 tầng, 9 phòng do viện mua vào tháng 6 năm 1989. Sau đó vì nhu cầu phát triển viện đã bán cơ sở này và mua lại một cơ sở khác tọa lạc tại 10155-89 Street vào năm 1992, cơ sở đó là một ngôi nhà thờ cũ rộng gần 3,500 sqft.
    Năm 1996 Viện quyết định mua một sở đất hơn nữa mẫu Anh (Acre) nằm trong khu trung tâm của thành phố Edmonton để xây dựng Tu Viện Trúc Lâm ngày nay. Công trình xây cất đã hoàn tất và đi vào hoạt động kể từ đầu tháng 6 năm 1997. Cơ sở này tọa lạc tại 11328-97 Street, là một toà nhà có 2 tầng rộng 12,400 sqf.
    #thaythichphaphoa #thichphaphoa #vandapthichphaphoa

ความคิดเห็น • 57

  • @chaong5327
    @chaong5327 3 หลายเดือนก่อน +6

    Nam mô a Di Đà Phật.Dạ con cảm ơn Quý Thầy.giảng rất hay, và con kính chúc Quý Thầy.luôn luôn mạnh khỏe ạ ❤❤❤

  • @campham2794
    @campham2794 3 หลายเดือนก่อน +1

    Nam mo bon su thich ca mau ni phat

  • @tranloankinhphim1257
    @tranloankinhphim1257 3 หลายเดือนก่อน +1

    nam mô a di đà phật con xin tri ân công đức của thầy

  • @ThusuongVothi-n2b
    @ThusuongVothi-n2b 3 หลายเดือนก่อน

    Thích thầy giảng nghĩa câu hỏi cho phật tử rất rõ ràng và bình dân nên phật tử mặc dầu chưa từng đến chùa nhiều nhưng học rất nhiều ý nghĩa trong cuộc sống hàng ngày. Cám ơn thầy đã mang lại nhiều bài học tốt.

  • @HIEUNGUYEN-t9h
    @HIEUNGUYEN-t9h 2 หลายเดือนก่อน

    Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

  • @maikim7554
    @maikim7554 3 หลายเดือนก่อน

    Nam Mô A Di Đà Phật
    Nam Mô A Di Đà Phật
    Nam Mô A Di Đà Phật

  • @NiemLe-jt6io
    @NiemLe-jt6io 3 หลายเดือนก่อน +2

    Nam mo bon su thich ca mau ni phat nam mo a di da phat

    • @dihong1290
      @dihong1290 3 หลายเดือนก่อน

      Nam Mo A Di Da Phat chúng con kính chúc thầy đây sức khỏe

  • @kuonganh3287
    @kuonganh3287 3 หลายเดือนก่อน +4

    A di da phat

  • @HIEUNGUYEN-t9h
    @HIEUNGUYEN-t9h 2 หลายเดือนก่อน

    Nam Mô A Di Đà Phật

  • @LeNguyen-ul4st
    @LeNguyen-ul4st 3 หลายเดือนก่อน

    Nam mô a di đà phật 🙏🙏🙏

  • @trinhthi7342
    @trinhthi7342 3 หลายเดือนก่อน

    Thầy giảng rất hay

  • @TinhanhnguyenBui
    @TinhanhnguyenBui หลายเดือนก่อน

    Thiền Lâm Tế Nhật Bản : Chúng con thành tâm tri ân công đức của Thầy Trưởng Lão Hòa Thượng Thượng Như Hạ Điển và Các Qúy Tôn Đức Khác : ( đoạn 13 ) :
    VI. Phổ Hệ Thiền Lâm Tế Nhật Bản sau thời kỳ Trung Hưng :
    2. Bạch Ẩn Huệ Hạc
    Cuối đời, Ngài viết bài ca về “ Nhổ Cỏ ” , một chương trong 6 chương của tác phẩm Bạch Ẩn Toàn Tập. Mới nghe, ai cũng tưởng rằng đó là một bài ca dao ở nông thôn, người ta hát lên khi nhổ cỏ, nhưng nếu bây giờ ngồi chăm chú đọc lại, thấy nội dung chẳng có gì khó hiểu, nhưng phải nói, những vần thơ ấy mang hấp lực truyền đạo rất mạnh, mà ai cũng có thể cảm nhận được. Ấy là tư tưởng về Thiền vô cùng thâm thuý của Bạch Ẩn. Thật là bất khả tư nghì, một áng văn hay đến như vậy !
    Bạch Ẩn kiêm cả “ Thiền Tịnh Song Tu ” như Nhất Hưu. Không phải ở cửa Thiền truyền bá tinh hoa của Tịnh Độ mà còn hành trì với tự tin đây là tông chỉ thực tiễn. Bài thơ “ Nhổ Cỏ ” như :
    Ngay nơi tâm mình, thành Phật !
    Hơn vạn biến - hãy niệm danh hiệu A Di Đà,
    Tâm trở nên thanh tịnh,
    Tâm ấy chính là Tịnh Độ,
    Thế Chí, Quan Âm đủ cả hai,
    Phiền não Bồ Đề vốn không khác ”
    Với Bạch Ẩn, khi ăn cũng niệm danh hiệu “ Nam Mô A Di Đà Phật ” và “ Nam mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh ”
    Có giả thuyết cho rằng “ Toạ Thiền Hoà Tán ” trong sách nầy, Bạch Ẩn soạn lúc về già, vì năm tháng ra đời không rõ ràng. Thật ra, có thể tác phẩm “ Toạ Thiền Hoà Tán ” Bạch Ẩn sáng tác và diễn thuyết giữa thời kỳ Meiji. Vì trong tác phẩm Hoà Tán có tư tưởng của kinh Pháp Hoa rất thịnh hành.
    Kinh Pháp Hoa là một trong những bản kinh được tôn trọng như là Vua trong các kinh Đại Thừa. Thế nhưng, nội dung kinh nầy chẳng ghi lại những giáo điều như Thánh Kinh của Thiên Chúa Giáo hay Thánh Điển của Nho Giáo, mà chỉ toàn là những thí dụ về chơn lý, mà những thí dụ ấy đều có tính cách biểu trưng.
    Đọc kinh Pháp Hoa nhưng không hiểu, hoặc bởi đây là Vua trong các kinh, không thể hiểu được, hoặc giả là khả năng giác ngộ còn quá yếu kém nên không thể lãnh hội được tôn ý trong kinh. Có lẽ vì không hiểu cho nên kinh Pháp Hoa vẫn còn giá trị. Thật ra, người “ Đọc kinh Pháp Hoa; nhưng chẳng hiểu Pháp Hoa là gì ? ” từ xưa đến nay không phải là ít, như Phú Vĩnh Xung Cơ thời kỳ Edo, như Bình Điền Mã Dận một học giả tầm cỡ quốc gia. Rất nhiều người cho rằng kinh Pháp Hoa không có giá trị vì dùng để tranh luận một cách thế tục.
    Năm Bạch Ẩn 16 tuổi lần đầu tiên nghe một vị Tăng thuộc Tông Nhật Liên nói : “ Thật là thất vọng khi đọc kinh Pháp Hoa thấy có quá nhiều thí dụ. Nếu cho rằng đọc kinh nầy có công đức, thì hàng trăm nhà sử học và nhạc sĩ tác giả những khúc hát trong nhân gian đều là những đại công đức. Tiếc rằng những ước nguyện của họ bây giờ không còn nữa. Càng tiếc càng không an.
    Khác với quan niệm của Phú Vĩnh Xung Cơ, Bình Điền Mã Dận và nhiều người về sau là không mở quyển kinh Pháp Hoa trong tay lần thứ hai, Ngài Bạch Ẩn xuất gia năm 15 tuổi phát nguyện : “ Dẫu thân nầy bị lửa đốt, nước trôi, không đủ năng lực, thà chết chứ không buông bỏ ý nguyện “ thường đọc kinh, lễ bái. Với Ngài, dù không dám khinh thường kinh điển nhưng đối với nội dung kinh Pháp Hoa cũng không khỏi mang tâm trạng nghi ngờ.
    Thế nhưng, lúc 26 tuổi, Bạch Ẩn tạo nhân duyên cho mọi người trì tụng kinh Pháp Hoa với Ngài. Bởi vì sau một thời gian dài lần lượt trì tụng kinh điển trong nhiều pháp hội để quyết định kinh nào sẽ trì tụng. Lạ lùng thay, kinh Pháp Hoa là bản kinh trong số những bản kinh được quyết định trì tụng lại.
    Bạch Ẩn liên tục nghiên cứu và đọc tụng kinh Pháp Hoa bắt đầu từ phẩm Tựa cho đến hết. Một đêm, đọc kinh Pháp Hoa đến phẩm “ Thí Dụ “ ở chương ba, đột nhiên nghe trong tai vang lên âm thanh cọ xát của những hòn đá, ngài liền ngộ được thâm ý thí dụ của kinh Pháp Hoa, không có gì là thần bí cả. Lâu nay, sở dĩ không giải thích những điều trong kinh được, vì những điều ấy không thuộc phạm vi tri thức của con người. Ngộ rồi, tự nhiên những vấn nạn, những câu hỏi, những nghi ngờ của Ngài được giải quyết hoàn toàn. Giống như cho đến khi nào phát minh của Khoa Học và Kỹ Thuật được công bố, cho đến khi ấy những gì nghi ngờ liền có kết quả, và mọi sự được giải đáp.
    Trường hợp của Bạch Ẩn cũng thế, không phải cái âm thanh xào xạc kia là đáp án, mà âm thanh ấy là nhân duyên làm sáng lên thật tế, vì tâm không tin kinh Pháp Hoa nên không rõ ý nghĩa cao siêu của những “ Thí Dụ ” trong kinh Pháp Hoa. Đó là sự phát hiện của Bạch Ẩn.
    Để hiểu được kinh Pháp Hoa, Bạch Ẩn phải nỗ lực trì tụng kinh Pháp Hoa từ năm 16 tuổi đến năm 42 tuổi, tổng cộng là 27 năm tròn. Khi còn trẻ, ngài chỉ tìm hiểu chữ nghĩa, văn tự chứ không đọc kinh điển, đến khi có tuổi, Bạch Ẩn đọc kinh không màng đến chữ nghĩa nữa. Do vậy âm thanh kia đánh thức Ngài để hiểu rõ kinh Pháp Hoa trong khi đang đọc. Thật ra, đây mới đúng là “ mở mắt ” khi đọc kinh. “ Mở mắt ” khi đọc kinh có nghĩa là hiểu rõ sự thật như hoa nở, chim hót v.v..., là những hiện tượng chân thật như là chân lý, mà trước đó 26 năm, có lẽ Bạch Ẩn chỉ hiểu rõ một nữa mà thôi.
    Tác phẩm “ Chư Sử Bách Gia “, “ Dao Thơ Kỷ Điển “ và những tạp chí trong hiện đại, nếu tự đọc bằng con mắt kinh điển đã khai mở, trong ấy những ký sự tuy bình thường nhưng đều là chơn lý sâu xa. Ngay cả, những thí dụ xấu xa thô tục của thế nhân cũng là biểu tượng chân lý, trong đó hàm chứa thanh tịnh. Tất cả đều được bộc phát từ nơi tâm của Bạch Ẩn, khi đã phát sanh hiểu biết sâu sắc. Đọc kinh bằng con mắt đặc biệt như thế, Bạch Ẩn có những tư tưởng phóng khoáng bao dung trong tác phẩm “ Diên Mệnh Thập Cú Quan Âm Kinh Linh Nghiệm Ký “. Ở tuổi 75 tại chùa Đông Uyên, Uenoike, Bạch Ẩn chấp bút viết tác phẩm giá trị như :“ Bát Tụng Luật “.
    Những bản kinh “ Diên Mệnh Thập Cú Quan Âm Kinh “ và “ Thập Cú Quan Âm Kinh “, các học giả nghiên cứu cho rằng những bản kinh cổ xưa của người Tân Cương, thuộc vùng Tây Bắc, Trung Hoa, không phải phát xuất từ Ấn Độ. Đặc biệt, những bản kinh biên soạn tại Trung Hoa được gọi là “ Nguỵ Kinh “.
    “ Ngụy Kinh “ có nghĩa là dựa theo ý Kinh mà sáng tác ra, với mục đích duy nhất là truyền bá tư tưởng Phật Học vào trong tín ngưỡng dân gian, chỉ cho họ thấy kinh điển không gì phức tạp, chẳng phải lễ nghi riêng biệt của Phật Giáo, miễn làm sao ý nghĩa không ra ngoài chân lý và miễn sao nội dung của những bản kinh “ không do Phật trực tiếp nói, mà được sáng chế tại Trung Hoa ” chuyên chở ý chánh của Phật, thích hợp với sự truyền đạo của Phật Giáo là được. “ Phụ Mẫu Trọng Ân Kinh “ cũng là một trong những nguỵ kinh.
    Bạch Ẩn cũng biết rằng “ Thập Cú Quan Âm Kinh “ là nguỵ kinh, nhưng ngài tuyên bố rõ ràng như sau :
    “ Chẳng có gì là ngụy mà cũng chẳng gì là chơn, miễn là linh nghiệm trong cuộc đời, mang lợi lạc đến cho tha nhân, như Cận Tùng Môn Tại đã làm, như Chí Đạo Cang một bậc mô phạm thời ấy đã nói :
    “ Người ta tụng kinh niệm Phật ngày đêm bởi vì họ tin. Hãy nhìn vào hiệu dụng của kinh, người tại gia tụng kinh cầu cho gia đình bình an, bậc xuất gia cầu tín tâm kiên cố, trí tánh thường minh để thấu rõ Phật Đạo cao siêu. Ai thường bố thí Pháp, sẽ thành tựu đại Bồ Đề. Ấy chẳng phải công đức của kinh sao ? ”
    Không phải chỉ đối với kinh điển, khi đọc sách cũng nên đọc với con mắt như thế. Bạch Ẩn nghe được âm thanh, khi đọc đến phẩm Thí Dụ, trong kinh Pháp Hoa, mà ngộ chân lý. Dù là nguỵ kinh đi nữa, nhưng tất cả đều trở thành Tịnh Lưu Ly, khi tin rằng do Đức Thế Tôn giảng pháp.
    ......

  • @LienLe-mv4rm
    @LienLe-mv4rm 3 หลายเดือนก่อน

    Nam mô a di đà Phật .
    Con kính Chúc Sư Thầy nhiều sức khỏe, thân tâm an lạc ạ

  • @HIENNGUYEN-t5m
    @HIENNGUYEN-t5m 2 หลายเดือนก่อน

    👍👍👍👍👍🙏🙏🙏🙏🙏🌷🌷🌷

  • @minhlinhable
    @minhlinhable 3 หลายเดือนก่อน

    Thüa Thâỳ, chú tiêū chùa tui con câm' tui con ( nhà õ chung cü ) không đuoc thö' Phât. Chùa có 1 lâù, tûng' duóì có lop hoc tiéng' Viêt, tui con xin đê?tuing Phât mà chú nhât đinh khong cho.
    Phãi làm sao đây ą.

  • @TinhanhnguyenBui
    @TinhanhnguyenBui 2 หลายเดือนก่อน

    Phật Pháp và Cuộc Sống : ( đoạn 6 ) :
    16 / Nhẫn nhục có ích gì ?
    Nhẫn nhục, theo nghĩa thông thường, nhẫn là nhịn chịu, nhục là tổn thương, bị sỉ nhục. Nhẫn nhục là chịu nhịn những điều mà người khác sỉ nhục, làm cho xấu hổ; chịu đựng tổn thương trước những việc không vừa lòng, nghịch ý, trái tai gai mắt… nhưng vẫn cố gắng giữ tâm không tức giận, không phản ứng lại và không nghĩ đến việc sẽ báo thù.
    Trong đạo Phật, nhẫn nhục nếu phân chia theo ba nghiệp thì có : thân nhẫn, khẩu nhẫn và ý nhẫn.
    Thân nhẫn là sự chịu đựng của thân trước các hoàn cảnh không vừa ý như nóng lạnh, bệnh tật, đói khát, chỗ ở thiếu tiện nghi, hoặc bị hành hạ đánh đập. Trước những nghịch cảnh như thế, người thực hành thân nhẫn cố gắng chịu đựng không phàn nàn, kêu ca hay bạo động chống trả mà chỉ bình tĩnh giải thích sự việc.
    Khẩu nhẫn là im lặng trước các nghịch cảnh như có người chửi mắng, vu oan, đâm thọc, nói sai sự thật, nói lời khiêu khích v.v… Trước những lời trái tai như thế, người thực hành khẩu nhẫn chỉ từ tốn giải thích trong ôn hòa, dù nghe lời không vừa ý nhưng họ vẫn giữ yên lặng, không giận dữ dùng những lời ác mà đối lại hoặc gây gổ cãi lộn, đánh nhau v.v...
    Ý nhẫn là tâm nhẫn nhục, trước nghịch cảnh mang đến cho thân và trước những lời nói trái tai họ đều kham nhẫn chịu đựng không có ý nghĩ tức giận, thù oán. Luôn giữ tâm buông xả, an định trước mọi thuận nghịch của đời sống.
    Nếu phân chia theo ý nghĩa thì nhẫn nhục có bên ngoài và bên trong.
    Nhẫn nhục bên ngoài nghĩa là vì danh lợi, vì có người khen, vì sợ uy quyền, vì chưa đúng thời điểm, vì chưa có đủ điều kiện phản kháng, vì sức yếu thế cô v.v… nên gắng chịu đựng. Tuy có nhẫn nhục nhưng đó chỉ là sự đè nén. Bất cứ sự chịu đựng nào cũng có giới hạn, khi vượt ngưỡng sẽ bùng vỡ và mang đến hậu quả khôn lường. Theo Phật giáo, nhẫn nhục bên ngoài cũng rất cần, nhưng cần hơn là hướng đến nhẫn nhục thực sự ở bên trong.
    Nhẫn nhục bên trong chỉ thành tựu khi trí tuệ và từ bi của hành giả đầy đủ. Hành giả thấy rõ tất cả pháp đều huyễn hóa vô thường, biết rõ mình và người không phải hai, thấy rõ vì người ta đang khổ ( do vô minh, tham ái, phiền não ) nên mới làm khổ mình, nhờ trí tuệ và từ bi nên hành giả kham nhẫn, chấp nhận và vượt qua tất cả chướng ngại một cách nhẹ nhàng. Nhẫn nhục bên trong một cách trọn vẹn còn được gọi là nhẫn nhục Ba la mật.
    Nhẫn nhục theo Phật giáo không có nghĩa là co mình chịu trận, ai muốn làm gì mình thì làm. Nhẫn nhục là bước đệm kham nhẫn cần thiết để tâm an, trí sáng nhằm giải quyết vấn đề một cách thấu tình đạt lý tiếp theo đó. Không phải ngẫu nhiên mà ông cha ta đã đúc kết kinh nghiệm “ một điều nhịn, chín điều lành ”. Đây chính là lợi ích của nhẫn nhục. Nhẫn nhịn để được “ chín điều lành ” là cách ứng xử đầy khôn ngoan, rất nhân văn và trí tuệ.
    Nhẫn nhục như đã trình bày được ứng dụng trong tất cả các phương diện cuộc sống. Người học Phật rèn luyện đức tính nhẫn nhục như một phẩm hạnh, một kỹ năng sống trước cuộc đời đầy biến động. Tám ngọn gió đời được - mất, nhục - vinh, khen - chê, khổ - vui ( bát phong : lợi - suy, hủy - dự, xưng - cơ, khổ - lạc ) luôn khuấy đảo đời sống của chúng ta. Đối với tất cả những điều trái ý nghịch lòng không phản ứng vội vàng theo bản năng phiền não mà cần bình tĩnh, điềm đạm, suy xét đúng sai rồi mới chọn cách ứng xử thích hợp.
    Vấn đề, trong trường hợp bị dồn vào bước đường cùng, nhẫn nhục có tác dụng gì và cứu giúp được gì ? Như đã nói, tu hạnh nhẫn nhục chính là ứng xử có trí tuệ và từ bi. Hoàn cảnh “ bước đường cùng ” thì chịu đựng cũng chết mà chống lại cũng chết thì vẫn rất cần nhẫn nhục với bi trí để tìm ra con đường sống.
    17 / “ Xem bói ra ma quét nhà ra rác ”
    Bạn nên bình tâm, vận dụng lý trí để nhìn lại toàn bộ vấn đề. Bấy lâu nay gia đình bạn vẫn an yên đó sao, từ khi vị thầy phong thủy phán quàng “ nhà có tà ma khiến gia tiên không vào nhà được, bày đảo bát hương, bỏ cây hương ngoài sân đi và cầu cúng ”… thì tai họa đã đổ ập lên nhà bạn.
    Điều đáng nói ở đây là gia đình bạn đã tin vào cửa Phật, lên chùa nhờ giúp đỡ mà thiếu duyên nên gặp vị thầy ở chùa vốn không khá hơn vị thầy phong thủy kia là mấy, cũng bổn cũ soạn lại bèn phán xiên rằng nhà bạn “ bị động long mạch ở mộ các cụ và có người âm đang trách vì phá bỏ gì đó ”, hoàn toàn phi Chính kiến, không dính dáng gì Chính pháp nhà Phật.
    Rồi bạn lại đi xem bói, thầy bói nói “ bố bị người âm nhập vào quấy phá, và có ông chú không có mộ phần nên quở trách ”. Tiếp tục đi xem bói nữa, bạn được thầy bói phán “ có ông chú mất mộ, còn bố thì bị người âm quấy phá, thêm năm nay là năm hạn của bố nên phải cúng kiếng, cầu đảo ”. Gần đây nhất, bạn lại tìm một thầy pháp chuyên trị tà, thầy nói “ nên yểm đất để gia tiên được vào nhà ”.
    Bạn đã trải qua năm lượt tìm thầy ( thầy phong thủy, thầy ở chùa, hai vị thầy bói, thầy pháp ), các thầy đều phán khá giống nhau, bày vẽ cúng kiếng, trấn yểm ( chủ yếu để kiếm tiền ) và hậu quả là bạn đã hao tốn khá nhiều tiền bạc mà chẳng ích gì, gia đình chỉ thêm hoang mang, bấn loạn hơn mà thôi.
    Bạn đã có lòng thành, mong chúng tôi “ tư vấn theo quan điểm đạo Phật nhằm soi đường dẫn lối cho gia đình ”, thiết nghĩ cũng nên nói thẳng rằng, gia đình bạn đã đi sai hướng trong việc xử lý chuyện gia đình cũng như chữa bệnh cho bố, nên hãy dừng ngay lập tức mọi việc liên quan đến xem coi, bói toán, trấn yểm, cúng kiếng, cầu đảo vì đó là tà kiến, bị lạc dẫn vào mê tín, vì “ xem bói ra ma ” chỉ khiến tiền mất tật mang mà thôi.
    Theo quan điểm Phật giáo, bạn và gia đình đã không đúng khi tin các việc xảy ra trong gia đình có nguyên nhân từ “ người âm quấy phá, bị động long mạch, do năm tuổi hạn của bố... ”. Mặc dù niềm tin này rất thịnh hành trong dân gian nhưng vì có bản chất mê tín nên luôn bị những người xấu lợi dụng, khai thác triệt để nhằm thủ lợi.
    Bạn và gia đình cần thay đổi niềm tin mê mờ này bằng niềm tin nhân quả Phật giáo vốn phân minh, khách quan và khoa học. Mọi kết quả đang xảy ra đều có nguyên nhân, chủ yếu là do biệt nghiệp của mỗi thành viên và cộng nghiệp của cả gia đình. Em của bạn bị nạn đã mất là do nghiệp dĩ của em ấy, bố của bạn bệnh đau là do nghiệp của bố mà hoàn toàn không phải do người âm quấy phá, các cụ quở trách hay do tuổi hạn v.v… tạo nên.
    Vì thế, theo Phật giáo, thương em thì bạn hãy tùy khả năng mà làm các việc lành để hồi hướng phước đức cho em. Thương bố thì lo chạy chữa, thuốc thang cho bố. Nếu đã chạy chữa và thuốc thang mà bố vẫn chưa khỏi thì nên động viên bố hoặc thay mặt bố mà sám hối oan nghiệp trong quá khứ. Sám hối rồi thì việc ác nên bỏ và việc thiện nên làm. Nếu biết quy y Tam bảo để trọn đời tích phước, hướng thiện lại càng quý hóa hơn.
    Nhờ nhận thức đúng nên đã hành động đúng khiến cho phước đức tăng trưởng, nghiệp chướng tiêu trừ, gia đạo của bạn dần an ổn trở lại và sẽ trở nên tốt đẹp, vạn sự cát tường.
    ......

  • @TinhanhnguyenBui
    @TinhanhnguyenBui หลายเดือนก่อน

    Tông ( Tôn ) Phái Phật Giáo Bắc Tông ( Đại Thừa ) - Thiền Tông : Chúng con thành tâm tri ân công đức của Thầy Trưởng Lão Hòa Thượng Thượng Thanh Hạ Từ và Các Qúy Tôn Đức Khác : “ Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền. Trực chỉ chơn tâm, kiến tánh thành Phật “ : ( đoạn 3 ) :
    Nam Mô Tam Thập Tam Tổ Thiền Tông Ấn Độ - Trung Hoa; Sáng Tổ Thiền Tông Việt Nam Khương Tăng Hội và Tam Tổ Thiền Tông Việt Nam - Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử :
    Chơn lý bổn vô danh,
    Nhơn danh hiển chơn lý,
    Thọ đắc chơn thật pháp,
    Phi chơn diệc phi ngụy.
    ( Chơn lý vốn không tên,
    Nhơn tên bày chơn lý,
    Nhận được pháp chơn thật,
    Chẳng chơn cũng chẳng ngụy ).
    Nam Mô Cửu Tổ Thiền Tông - Tổ Phục Đà Mật Đa ( Buddhamitra ) ( Ngài sinh sau Đức Phật nhập Niết Bàn 322 năm. Ngài có Cha tên là Phục Đà Vi Thùy, Mẹ tên là Ưu Phả Thị, Ngài họ Tỳ Xá La. Ngài sinh ở nước Đề Già, Ấn Độ xưa ).
    Thử địa biến kim sắc,
    Dự tri ư thánh chí,
    Đương tọa bồ đề thọ,
    Giác hoa nhi thành dỉ.

    ( Đất này hóa sắc vàng,
    Biết có thánh nhơn sang,
    Ngồi dưới cây bồ đề,
    Hoa giác nở hoàn toàn ).
    ------
    Sư tọa kim sắc địa,
    Thường thuyết chơn thật nghĩa,
    Hồi quang nhi chiếu ngã,
    Linh nhập tam ma đề.
    ( Thầy ngồi đất sắc vàng,
    Thường nói nghĩa chơn thật,
    Xoay ánh sáng chiếu con,
    Khiến vào nơi Chánh Định ).
    ------
    Chơn thể tự nhiên chơn,
    Nhơn chơn thuyết hữu lý,
    Lãnh đắc chơn chơn pháp,
    Vô hành diệc vô chỉ.

    ( Chơn thể đã sẵn chơn,
    Bởi chơn nói có lý,
    Hội được pháp chơn nhơn,
    Không đi cũng không dừng ).
    Nam Mô Thập Tổ Thiền Tông - Tổ Hiếp Tôn Giả ( Parsvika ) ( Ngài sinh sau Đức Phật nhập Niết Bàn 361 năm. Ngài có Cha tên là Hiếp Thành Huỳnh, Mẹ tên là Châu Phước Truyền, Ngài tục danh là Nan Sanh. Ngài sinh ở Trung Ấn Độ xưa ).
    Mê ngộ như ẩn hiển,
    Minh ám bất tương ly,
    Kim phó ẩn hiển pháp,
    Phi nhất diệc phi nhị.
    ( Mê ngộ như ẩn hiện,
    Tối sáng chẳng rời nhau,
    Nay trao pháp ẩn hiện,
    Chẳng một cũng chẳng hai ).
    Nam Mô Thập Nhất Tổ Thiền Tông - Tổ Phú Na Dạ Xa ( Punyayasas ) ( Ngài sinh sau Đức Phật nhập Niết Bàn 398 năm. Ngài có Cha tên là Phú Bảo Thân, Mẹ tên là Thuận Kiều Trang, dòng Cù Đàm. Ngài là con trai út, sinh ở nước Hoa Thị, Ấn Độ xưa. ).
    Khể thủ trưởng lão tôn,
    Đương thọ Như Lai ký,
    Kim ư thử địa thượng,
    Nhi độ sanh tử chúng.
    ( Cúi đầu lễ trưởng lão,
    Hiện nhận lời Phật ghi,
    Nay ở nơi xứ nầy,
    Độ chúng khỏi sanh tử ).
    ------
    Ẩn hiển tức bổn pháp,
    Minh ám nguyên bất nhị,
    Kim phó ngộ liễu pháp,
    Phi thủ diệc phi khí.
    ( Ẩn hiện vốn pháp này,
    Sáng tối nguyên không hai,
    Nay truyền pháp liểu ngộ,
    Không lấy cũng chẳng bỏ ).
    Nam Mô Thập Nhị Tổ Thiền Tông - Tổ Bồ Tát Mã Minh ( Asvaghosha, hiệu Mã Minh, Công Thắng ) ( Ngài sinh sau Đức Phật nhập Niết Bàn 434 năm. Ngài có Cha tên là Mã Thắng Quyền, Mẹ tên là Hữu Phúc Vân. Ngài sinh ở nước Ba La Nại, Ấn Độ xưa. ).
    Phi ẩn phi hiển pháp,
    Thuyết thị chơn thật tế,
    Ngộ thử ẩn hiển pháp,
    Phi ngu diệc phi trí.
    ( Pháp không ẩn không hiển,
    Nói là mé chơn thật,
    Ngộ pháp ẩn hiển nầy,
    Chẳng ngu cũng chẳng trí ).
    Nam Mô Thập Tam Tổ Thiền Tông - Tổ Ca Tỳ Ma La ( Kapimala ) ( Ngài sinh sau Đức Phật nhập Niết Bàn 475 năm. Ngài có cha tên là Ca Phất Trung Thiên, Mẹ tên là Khưu Phước Thiện. Ngài sinh ở nước Hoa Thị, Ấn Độ xưa. ).
    Thân hiện viên nguyệt tướng,
    Dĩ biểu chư Phật thể,
    Thuyết pháp vô kỳ hình,
    Dụng biện phi thinh sắc.
    ( Thân hiện tướng trăng tròn,
    Để nêu thể các Phật,
    Nói pháp không hình ấy,
    Dùng rõ phi thinh sắc ).
    ------
    Vị minh ẩn hiển pháp,
    Phương thuyết giải thoát lý,
    Ư pháp tâm bất chứng,
    Vô sân diệc vô hỷ.
    ( Vì sáng pháp ẩn hiển,
    Mới nói lý giải thoát,
    Nơi pháp tâm chẳng chứng,
    Không sân cũng không hỷ ).
    Nam Mô Thập Tứ Tổ Thiền Tông - Tổ Long Thọ ( Nagarjuna, Long Thắng ) ( Ngài sinh sau Đức Phật nhập Niết Bàn 517 năm. Ngài có cha tên là Long Chí, Mẹ tên là Út Phương, dòng Phạm Chí. Ngài sinh ở miền Tây Ấn Độ xưa. ).
    Thử mộc sanh kỳ nhĩ,
    Ngã thực bất khô khao,
    Trí giả giải thử nhơn,
    Ngã hồi hướng Phật đạo.
    ( Cây nầy sanh nấm lạ,
    Con ăn rất ngon lành,
    Người trí giải nhơn nầy,
    Con xin theo Phật đạo ).
    ------
    Nhập đạo bất thông lý,
    Phục thân hoàn tín thí,
    Nhữ niên bát thập nhất,
    Thử mộc diệc vô nhĩ.
    ( Vào đạo không thông lý,
    Hoàn thân đền tín thí,
    Trưởng giả tuổi tám mốt,
    Cây nầy không sanh nấm ).
    ------
    Bổn đối truyền pháp nhơn,
    Vị thuyết giải thoát lý,
    Ư pháp thật vô chứng,
    Vô chung diệc vô thủy.
    ( Xưa đối người truyền pháp,
    Vì nói lý giải thoát,
    Nơi pháp thật không chứng,
    Không chung cũng không thủy ).
    Nam Mô Thập Ngũ Tổ Thiền Tông - Tổ Bồ Tát Ca Na Đề Bà ( Kanadeva ) ( Ngài sinh sau Đức Phật nhập Niết Bàn 546 năm. Ngài có cha tên là Ca Na Bạc, Mẹ tên là Hữu Chung Truyền, dòng Tỳ Xá Ly. Ngài sinh ở miền Nam Ấn Độ xưa. ).
    ......

  • @TinhanhnguyenBui
    @TinhanhnguyenBui 2 หลายเดือนก่อน

    Phật Pháp và Cuộc Sống : ( đoạn 3 ) :
    6 / Sám hối tội hủy báng ?
    Trong thực tế, có không ít người từng trải qua những cảm xúc và kinh nghiệm như bạn. Bởi trước đây chưa hiểu đạo, tự tin và có phần ngã mạn thái quá nên thường nghĩ hoặc buông lời xúc phạm đến Trời Phật. Riêng bạn, nhờ căn lành vẫn còn nên đã biết quy hướng Tam bảo, biết tu tập theo Chánh pháp, và nhất là biết sợ tội lỗi hủy báng của mình.
    Theo tinh thần từ bi và trí tuệ của nhà Phật, người không hiểu biết nên phạm lỗi cũng chưa đáng tội. Mê từ tâm này mà ra thì khi giác ngộ rồi cũng chính từ tâm ấy mà sửa. Quan trọng là nhận ra tội lỗi của mình để tìm cách khắc phục. Hẳn bạn đã từng biết câu “ Tội từ tâm khởi đem tâm sám ” nên biết lỗi thì chuộc lỗi bằng cách thành tâm sám hối.
    Tất cả các vấn đề tốt xấu, thuận nghịch của cuộc sống đều bắt nguồn từ nơi ba nghiệp ý, miệng, thân ( suy nghĩ, lời nói, hành động ) của mình. Nếu suy nghĩ, lời nói và hành động xấu ác thì nhận lấy hậu quả khổ đau. Ngược lại nếu suy nghĩ, lời nói và hành động thiện lành thì gặt hái kết quả an vui.
    Nên trước hết, bạn cần khởi tâm ăn năn, hối cải về những mê lầm, tội lỗi hủy báng của mình. Kế đến bạn cần nương theo một trong những bộ kinh sám như Thủy sám, Lương hoàng sám, Ngũ bách danh Phật, Vạn Phật, Hồng danh bửu sám v.v… để xưng niệm và lễ bái sám hối tất cả nghiệp chướng. Bạn cần lễ bái cho đến khi nào nhận thấy tâm tư thanh thản, nhẹ nhàng mới thôi.
    Lễ bái hồng danh Phật có công đức không thể nghĩ bàn. Vì thế, bạn hãy thành tâm kính lễ để hóa giải nghiệp chướng, đồng thời khiến cho phước đức tăng trưởng, thành tựu hạnh phúc và an lành trong cuộc sống.
    7 / Tin Phật A Di Đà có phải tà kiến ?
    Theo Phật giáo Bắc tông, Đức Phật A Di Đà và cảnh giới Cực lạc do Đức Phật Thích Ca thuyết giảng. Hiện cả hai truyền thống Phật giáo Bắc tông và Nam tông đều tin vào giáo lý chư Phật và tịnh độ của các Ngài hiện hữu trong mười phương, ba đời. Vì thế, việc tin có một cảnh giới tịnh độ ở Tây phương, cách xa chúng ta hơn mười muôn ức cõi, phù hợp với quan điểm Phật giáo, không có gì là tà kiến cả.
    Còn ngày vía Phật A Di Đà 17 tháng 11 âm lịch hiện nay, thực chất là ngày sinh của Đại Sư Vĩnh Minh - Diên Thọ, Tổ Sư đời thứ sáu của 13 vị Tổ Tông Tịnh Độ Phật giáo Trung Quốc.
    Đại sư Vĩnh Minh - Diên Thọ được truyền tụng là hóa thân của Phật A Di Đà nhưng trong 72 năm thị hiện làm Tăng ở Ta Bà không ai biết được. Chỉ đến những giờ phút sau cùng, lúc thị hiện nhập Niết Bàn, mới phương tiện cho hàng Tăng kẻ tục biết ngài là Phật A Di Đà hóa thân để tăng trưởng lòng tin, phát tâm niệm Phật, cầu vãng sanh Tây phương Tịnh độ. Từ đây, ngày sinh của Đại sư Vĩnh Minh - Diên Thọ ( hóa thân Phật A Di Đà ) được chọn làm ngày vía Khánh đản Phật A Di Đà.
    8 / Băn khoăn về giữ giới thứ ba
    Giới thứ ba Không tà dâm có nghĩa chính yếu là chung thủy với người bạn đời của mình. Người Phật tử không quan hệ tình ái với người khác ngoài vợ hoặc chồng của mình ( kể cả các loài phi nhân và súc sanh ); ngay trong quan hệ vợ chồng cũng phải dựa trên tinh thần tự nguyện, dâng hiến, có chừng mực, hợp thời, phải chỗ. Đại thể, những sự quan hệ nam nữ không được giới luật, luật pháp và luật tục thừa nhận đều được xem là tà dâm.
    Đối với những ngày “ trai “ trong tháng, bao gồm thập trai ( mùng 1, 8, 14, 15, 18, 23, 24, 28, 29, 30 âm lịch ), lục trai ( mùng 8, 14, 15, 23, 29, 30 âm lịch ), tứ trai ( mùng 1, 14, 15, 30 âm lịch ), nhị trai ( mùng 1, 15 âm lịch ), thiển nghĩ, chỉ có hai ngày nhị trai ( sóc, vọng ) Phật tử cần phát tâm trai giới, thanh tịnh thân tâm nên tránh không quan hệ vợ chồng. Ngoài ra, vào những ngày lễ lớn, ngày giỗ cha mẹ, Phật tử cần phát tâm trai giới để vun bồi phước đức.
    Cần nói thêm, chữ “ trai “ đây là trai giới, thanh tịnh thân tâm nhờ giữ giới Bát quan trai, do Phật tử tự giác phát nguyện thọ trì. Tu tập trai giới chủ yếu là do sự phát tâm, được nhiều ngày thì phước đức càng thêm lớn. Còn những ngày “ trai “ khác và các tháng “ trai “ khác, nếu Phật tử không phát nguyện thọ trì trai giới thì mọi sinh hoạt đời sống đều bình thường.
    9 / Sửa tâm có đổi được tướng ?
    Đúng là “ tướng tự tâm sinh ”, tướng mạo của con người đều do tâm của chính vị ấy sinh ra. Chữ “ tâm ” đây có hai ý nghĩa quan trọng bạn cần lưu ý để làm cơ sở cho việc “ sửa tâm ” của mình.
    Như bạn đã chia sẻ, khi mới sinh ra bạn đã có gương mặt không đẹp và chẳng hiền. Do tâm thức tái sinh mang theo những nghiệp nhân bất thiện trong quá khứ để chiêu cảm ra quả báo hiện tại không được đẹp đẽ, nên nói hình tướng do tâm ( nghiệp ) sinh ra. Tướng mạo, trong trường hợp này có tính cố định, sự tu tập và tăng trưởng phước báo nếu có chỉ chuyển hóa hoặc can thiệp được một vài phần, không thể chuyển trắng thành đen và ngược lại. Ví dụ, người lùn thì chỉ can thiệp được bớt lùn; một người xấu thì dùng mọi nỗ lực chuyển hóa sẽ được bớt xấu; một người da đen thì được bớt đen mà thôi.
    Về phương diện khác, ngay trong thời điểm hiện tại, tâm ( tâm lý ) vui hay buồn, thương hoặc giận sẽ biểu hiện ra khá rõ ràng trong lời nói, hành động, nhất là trên gương mặt mình. Nếu trong lòng vui vẻ hân hoan thì ngoài mặt rạng ngời, hạnh phúc. Ngược lại trong lòng đang tức giận thì đỏ mặt tía tai, nói năng hung dữ, hành vi lỗ mãng. Do vậy mà nói “ tướng tự tâm sinh ”. Trong trường hợp này, khi bạn cố gắng sửa tâm, gột rửa tham sân si, giữ cho tâm tĩnh sáng và hiền thiện thì căn bản gương mặt bạn vẫn không thay đổi. Chỉ khác là tuy mặt xấu mà tâm tốt, dù mặt dữ mà tâm hiền thành ra bạn vẫn “ đẹp ” và luôn được mọi người yêu thương, thân thiện.
    ......

  • @TinhanhnguyenBui
    @TinhanhnguyenBui 2 หลายเดือนก่อน

    Phật Pháp và Cuộc Sống : Tất cả các Pháp đều là Phật Pháp : ( đoạn 116 ) :
    336 / Hiểu đúng về “ xả bỏ ham muốn ”
    Theo Phật giáo, ham muốn (tham lam, tham ái, tham dục, dục vọng) là phiền não căn bản tồn tại trong tất cả mọi người. Tham ái và vô minh chính là cội nguồn của mọi tranh chấp, khổ đau. Vì lòng tham vốn vô hạn, dục vọng không có điểm dừng nên Phật giáo dạy người phát huy tỉnh thức để chuyển hóa, giảm thiểu và buông xả bớt ham muốn nhằm thiết lập bình an, lợi mình và ích người. Xả ly toàn bộ ham muốn vị kỷ chính là bậc Thánh A-la-hán, hoàn toàn giải thoát sinh tử, khổ đau.
    Vì bản chất của con người là tham-ái-dục nên xả bỏ ham muốn hoàn toàn (ly tham, đoạn tham) là ước vọng, là cứu cánh, còn sống trong đời thường giảm thiểu ham muốn đã là quý hóa lắm rồi. Nói cụ thể, mục tiêu của người Phật tử là buông xả bớt ham muốn, không bo bo vị kỷ, sống san sẻ vị tha để mình và người đều lợi ích, an vui. Nên phải xác định ly tham là mục tiêu sau cùng, bớt tham là mục tiêu hiện tại.
    Ham muốn thì vô cùng, phân loại thì có tham ngũ dục (tiền bạc, sắc đẹp, danh tiếng, ăn uống, ngủ nghỉ), đắm lục trần (đối tượng của sáu giác quan: sắc- cảnh đẹp, thanh- tiếng hay, hương- mùi thơm, vị- ngon ngọt, xúc- êm ái, pháp- những đối tượng của tâm ý). Dĩ nhiên khó có thể đạt được những tham muốn này, thường thì được cái này lại mất cái kia, dù sao thỏa mãn các tham muốn vẫn là hạnh phúc của thế thường. Thực tiễn đời sống phải có ngũ dục (không có là nguy), phải có đời sống dễ chịu (lục trần, ngoại cảnh không chướng nghịch) nhưng quá tham đắm lại là điều không tốt, nhiều mong cầu sẽ phiền não khổ đau.
    Thế nên, người Phật tử cũng có mong muốn chính đáng như sức khỏe, bình an, hạnh phúc; mong muốn đầy đủ phước báo để lợi mình và lợi người. Thực tập buông bớt tham đắm, người Phật tử lập hạnh muốn ít và biết đủ (thiểu dục và tri túc). Muốn ít là vì biết nghĩ đến người, mong muốn được sẻ chia với người nên không gom hết cho mình. Biết đủ là không quá tham cầu, chấp nhận thực tiễn, vui với những gì mình đang có (vì muốn nhiều hơn chưa hẳn đã được mà càng nặng nề, bận tâm thêm).
    Cần phải thấy rõ, các duyên bên ngoài (có vật chất, ngũ dục) chỉ là những điều kiện cần, bình an trong tâm mới là điều kiện đủ cho hạnh phúc, cho chất lượng cuộc sống. Chạy theo ngũ dục mà đánh mất bình an bản thân và gia đình là một sự trả giá quá đắt, một sự thiếu trí tuệ. Cho nên, người Phật tử lập hạnh muốn ít và biết đủ không phải là sự thụ động, kìm hãm sự phát triển kinh tế của bản thân và xã hội mà đó chính là thiết lập sự thăng bằng giữa phát triển vật chất và tinh thần, hài hòa giữa sự thành đạt và bình an.
    337 / Muốn tự học Phật nên bắt đầu từ đâu?
    Đạo Phật trên thế giới hiện có hai truyền thống lớn, đó là Phật giáo Nam tông (Nguyên thủy) và Phật giáo Bắc tông (Phát triển). Trong mỗi truyền thống lại có nhiều tông phái khác nhau. Về căn bản lịch sử và giáo lý, các truyền thống và tông phái Phật giáo đều giống nhau, song bên cạnh đó cũng có một số khác biệt.
    Đặc điểm của Phật giáo Việt Nam là dung hội cả hai truyền thống Phật giáo lớn của thế giới với nhiều tông phái, hệ phái khác nhau. Trước thực tiễn kinh sách Phật học và văn hóa Phật giáo vô cùng phong phú, đa dạng như hiện nay, người tự tìm hiểu Phật pháp sẽ lúng túng và mất thời gian nếu không được định hướng đúng đắn.
    Để tự tìm hiểu, nghiên cứu Phật pháp, thiển nghĩ trước nên tiếp cận từ lịch sử, giáo lý, sau mới đến văn hóa và các phương diện khác của Phật giáo.
    Về lịch sử Phật giáo, bạn có thể bắt đầu với sách Đức Phật lịch sử của Schumenn ( Trần Phương Lan dịch ), sách Đức Phật Gotama của Hajime Nakamura ( Trần Phương Lan dịch ). Đây là hai biên khảo tiêu biểu về lịch sử Đức Phật dựa vào văn bản học và khảo cổ học có uy tín trên thế giới. Bạn có thể tìm hiểu cuộc đời Đức Phật một cách thi vị hơn qua sách Đường xưa mây trắng của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.
    Ngoài ra, bạn nên tìm hiểu thêm về Phật giáo Việt Nam qua sách Lịch sử Phật giáo Việt Nam của Lê Mạnh Thát và sách Việt Nam Phật giáo sử luận của Nguyễn Lang ( bút hiệu của Thiền sư Thích Nhất Hạnh ).
    Về giáo lý căn bản, thiển nghĩ bạn nên đọc sách Đức Phật và Phật pháp của Trưởng lão Narada ( Phạm Kim Khánh dịch ), sách Trái tim của Bụt của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, sách Phật học phổ thông của Hòa thượng Thích Thiện Hoa, sách Phật học cơ bản ( Giáo trình do Ban Hoằng pháp Trung ương soạn ).
    Đặc biệt, nếu hội đủ duyên lành bạn nên đọc thẳng vào kinh tạng, Kinh tạng Nikaya ( gồm kinh Trường bộ, kinh Trung bộ, kinh Tương ưng bộ, kinh Tăng chi bộ, kinh Tiểu bộ ) và Kinh tạng A Hàm ( gồm kinh Trường A Hàm, kinh Trung A Hàm, kinh Tăng nhất A Hàm, kinh Tạp A Hàm ). Tất cả giáo lý căn bản, bao gồm cả pháp học lẫn pháp hành đều nằm trọn trong hai bộ kinh này. Về sau, tùy nhân duyên bạn có thể tìm hiểu thêm Luận tạng, kinh Đại thừa, các Sớ chú giải…
    Sách chuyên khảo về văn hóa Phật giáo từ Ấn Độ, Trung Quốc, Việt Nam… hiện có rất nhiều, bạn cứ tùy duyên tham khảo.
    Về thông tin, bạn có thể đọc và xem tin tức Phật giáo trên Giác Ngộ online ( giacngo.vn ) - Cơ quan ngôn luận của GHPGVN TP.HCM, phatgiao.org.vn - Cổng thông tin điện tử của Ban Thông tin - Truyền thông Trung ương; Phật sự online ( phatsuonline.com ) - Cổng thông tin Văn phòng Trung ương GHPGVN. Ngoài ra, thuvienhoasen.org ( do cư sĩ Tâm Diệu chủ trương ở nước ngoài ) cũng đăng tải khá nhiều kinh sách, các bài khảo luận, nghiên cứu Phật học với nhiều thể loại. Còn nhiều trang mạng Phật giáo khác nữa chuyên sâu về giáo lý và pháp hành của riêng từng tông phái, hệ phái, pháp môn. Sau khi học xong phần căn bản Phật pháp, bạn có thể tự tìm hiểu, nghiên cứu và học hỏi thêm ở các trang này.
    Những kinh sách hay trang mạng mà chúng tôi giới thiệu chỉ là gợi ý ban đầu, có tính tổng quan. Quan trọng nhất, bạn cần kết duyên với một số Vị Tăng ( Ni ) để được trực tiếp trợ duyên, hướng dẫn chi tiết trong quá trình tự học Phật.
    338 / Bị tâm thần nhẹ có nên tiếp tục tu hành ?
    Đúng như bạn nói, theo quy định của Đức Phật, “người tâm lý có phần bất thường thì không được thọ giới”. Trong hoàn cảnh của bạn, nếu được bổn sư đồng ý, gia đình và Phật tử hỗ trợ kinh phí, thì bạn hãy ở chùa, tiếp tục điều trị bệnh cho đến khi lành hẳn mới xin phép thọ giới.
    Bệnh tật thì ai cũng có, nhưng bệnh tâm thần khi phát khởi có thể khiến bệnh nhân mất kiểm soát lời nói và hành vi. Những biểu hiện của căn bệnh này song hành với chiếc áo tu hành thì dễ dàng khiến cho người khác hiểu và đánh giá sai lệch về nhà chùa, chư Tăng nói chung, sẽ khiến bạn tổn phước và đạo pháp bị tổn thương nghiêm trọng.
    Do vậy, nếu không đủ duyên như đã nói thì bạn nên xin phép bổn sư trở về gia đình, làm người cư sĩ, tiếp tục trị bệnh. Khi nào hết bệnh thì bạn trở lại chùa xin được xuất gia.
    ......

  • @TinhanhnguyenBui
    @TinhanhnguyenBui 2 หลายเดือนก่อน

    Trưởng Lão Tăng Kệ - Kinh Tiểu Bộ - Khuddaka Nikàya : Chúng con thành tâm tri ân công đức của Qúy Ngài Đại Trưởng Lão, Trưởng Lão, Hòa Thượng, Sư Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Thượng Minh Hạ Châu, Ni Trưởng, Thượng Tọa, Ni Sư, Đại Đức, Tỳ Kheo, Tỳ kheo Ariyasilo, Tỳ Kheo Ni, Sa Di, Sa Di Ni, Thức Xoa Ma Na, Tu Nữ, Phật Tử, Tứ Chúng, Tăng Đoàn, Đạo Tràng, Tinh Xá,……Của Phật Giáo Theravada, Nam Tông, Bắc Tông,……: ( đoạn 14 ) :

    Chương I - Một Kệ - Phẩm Mười :
    Ðảnh Lễ Ðức Thế Tôn Bậc A La Hán Chánh Ðẳng Giác :
    92 / Tôn Giả Cakkupàla ( Thera. 14 ) :
    Trong thời Đức Phật hiện tại, Ngài sanh ở Sàvatthi, con của người điền chủ tên Mahàsuvanna, được đặt tên là Pàla, Ngài cũng được gọi là Pàla anh, vì em Ngài được gọi là Pàla em, cả hai anh em được Cha Mẹ giao phó cho những công việc ở gia đình. Khi Bậc Ðạo Sư đến tinh xá Kỳ Viên, Pàla anh giao gia sản cho người em và xuất gia. Sau sáu năm làm Sa Di, Ngài đi với sáu mươi Tỷ Kheo để học hỏi Chánh pháp. Các Vị này lựa một ngôi rừng gần một ngôi làng biên địa, tại chỗ ấy, dân làng là các Phật tử cư sĩ, và Ngài sống trong một chòi lá, sống hạnh viễn ly của một Vị tu hành.
    Ngài bị đau mắt và một vị thầy thuốc cho thuốc chữa, Ngài không chịu nghe theo lời thầy thuốc, bệnh nặng thêm. Ngài nghĩ : “ Thà làm cho chấm dứt các kiết sử của ta, còn tốt hơn là chấm dứt bệnh đau mắt “. Như vậy, Ngài bỏ qua bệnh đau mắt, chỉ lo phát triển thiền quán, cho đến khi Ngài chứng quả A La Hán thời cũng mù mắt luôn. Ngài được gọi là Vị A La Hán khô.
    Các cư sĩ hỏi các Tỷ Kheo về Ngài và nghe nói Ngài mù nên các cư sĩ hết lòng săn sóc cho Ngài. Rồi các Tỷ Kheo khác cũng chứng quả A La Hán và đề nghị đến Sàvatthi ( Xá Vệ ) để yết kiến Bậc Ðạo Sư. Nhưng Ngài nói : “ Tôi yếu và mù, con đường đi không phải là không nguy hiểm. Tôi sẽ làm trở ngại cho các Vị, các Vị hãy đi trước, thay mặt tôi đảnh lễ Bậc Ðạo Sư và các đại đệ tử khác, hãy nói với Pàla em tôi về tình trạng của tôi, và gửi cho tôi một người giúp đỡ ”. Cuối cùng, các Tỷ Kheo nhận lời đi, sau khi từ biệt các Vị hộ chủ và sắp đặt cho Ngài một chỗ ở. Các Tỷ Kheo làm theo lời dặn của Ngài và Pàla em bảo người cháu tên là Pàlika đi đến giúp đỡ Ngài. Các Tỷ Kheo làm lễ xuất gia cho Pàlika, vì con đường đi không có an toàn cho một người cư sĩ. Pàlika đi đến Ngài và cả hai người đều lên đường đi đến Sàvatthi. Giữa đường, Pàlika nghe một phụ nữ hát và đến tình tự với người ấy. Ngài biết được nên đuổi Pàlika đi, một mình đi đến Sàvatthi. Hạnh đức của Ngài làm cho chỗ ngồi của Sakka ( Ðế Thích ) nóng và Sakka hiện hóa một người dẫn đường cho Ngài đi đến tinh xá Kỳ Viên, ngay vào buổi chiều ấy. Trong khi Ngài ở Kỳ Viên, Pàla em lo phụng dưỡng Ngài, Ngài nói lên bài kệ như sau, khi Ngài đuổi Pàlika đi.
    Dầu ta có bị mù,
    Dầu mắt ta hư hoại,
    Dầu con đường ta đi,
    Dầu gai góc khó khăn,
    Ta sẽ tự mình đi,
    Dấn thân trên đường ấy,
    Nhưng ta không cùng đi,
    Kẻ ác hạnh như vậy.
    93 / Tôn Giả Khandasumana ( Thera. 14 ) :
    Trong thời Đức Phật hiện tại, tái sanh trong một gia đình của Vua Màlla, Ngài được đặt tên là Khandasumana ( Bông lài ), vì khi Ngài sanh, bông lài nở hoa, Ngài nghe Đức Phật thuyết pháp khi Đức Phật trú ở tại rừng xoài của Cunda ở Ràvà, xuất gia và chứng được sáu thắng trí. Rồi Ngài nhớ đến đời sống quá khứ khi Ngài cúng một nhánh bông lài tại tháp của Đức Phật Kassapa, trong khi tất cả bông hái được đều thuộc về của Vua. Nhận thấy cử chỉ của Ngài giúp Ngài chứng được quả Niết Bàn, Ngài nói lên bài kệ như sau :
    Do một bông từ bỏ,
    Ðược hưởng tám ức năm,
    Sống trong cảnh cõi trời,
    Còn số năm còn lại,
    Ta được sống tịch tịnh.
    94 / Tôn Giả Tissa ( Thera. 14 ) :
    Trong thời Đức Phật hiện tại, Ngài sanh tại thành phố Roguva trong một gia đình Vua Chúa. Khi Phụ Vương mất, Ngài tiếp nối sự nghiệp của Vua Cha. Như một đồng minh với Vua Bimbisàra, Ngài gửi Vua các tặng vật châu báu, ngọc và y áo. Vua gửi Ngài đời sống của Đức Phật vẽ trên tấm tranh và lý duyên khởi được khắc trên một đĩa bằng vàng. Khi Ngài thấy vật này, vì lời phát nguyện trước các Đức Phật quá khứ, vì nhân duyên đời sống cuối cùng, Ngài suy tư định lý ấy, quán sát qua lại nhiều lần, học thuộc lòng nhiều lần, cho đến khi Ngài cảm thấy dao động và đi đến kết luận : “ Nay ta đã được thấy hình dung của Thế Tôn cùng với quá trình giáo lý của Ngài. Các dục đầy những đau khổ, vậy ta sống đời sống gia đình làm gì ? ”. Rồi Ngài thoái vị, xuất gia, cầm bát bằng đất và với một số quần chúng đi theo và khóc than, như Hoàng Tử Pukkusàti, Ngài từ bỏ hoàng cung, đi đến Rajagaha ( Vương Xá ). Tại đấy, Ngài ở tại hang Sabhasondika và yết kiến Thế Tôn. Nhờ Thế Tôn thuyết pháp, Ngài chứng quả A La Hán. Nói đến kinh nghiệm bản thân, Ngài nói lên bài kệ :
    Từ bỏ trăm bình bát,
    Bằng đồng, vàng quý giá,
    Ta cầm lấy bình bát,
    Làm bằng đất sét thường,
    Ðây là lần thứ hai,
    Ta làm lễ quán đảnh.
    95 / Tôn Giả Abhaya ( 2 ) ( Thera. 14 ) :
    Trong thời Đức Phật hiện tại, Ngài sanh ở Sàvatthi, trong một gia đình Bà La Môn, được đặt tên là Abhaya. Sau khi nghe Đức Phật thuyết pháp, Ngài xuất gia. Một hôm, Ngài đi khất thực ở trong làng, thấy một nữ nhân ăn mặc rất đẹp đẽ, tâm tư Ngài bị dao động, khi trở về tịnh xá, Ngài suy nghĩ : “ Thấy một sắc pháp, tâm ta sanh cấu uế, ta đã phạm lỗi lầm “. Từ bỏ tâm tư ấy, Ngài phát triển thiền quán và chứng A La Hán. Rồi Ngài nói lên sự sai lầm và sự thức tỉnh của Ngài ngang qua bài kệ :
    Thấy sắc, mất chánh niệm,
    Tác ý tưởng luyến ái,
    Tâm cảm thọ say mê,
    Ðắm trước tưởng an trú,
    Các lậu hoặc tăng trưởng,
    Ðưa đến gốc sanh hữu.
    96 / Tôn Giả Uttiya ( Thera. 14 ) :
    Ngài tái sanh ở Kapilavatthu, trong thời Đức Phật hiện tại, trong một gia đình vương tộc Thích Ca, được đặt tên là Uttiya. Khi đến tuổi trưởng thành, Ngài chứng kiến sức mạnh của Đức Phật, khi Ngài đến thăm các gia đình bà con của Ngài, Ngài khởi lòng tin và xuất gia. Trong thời kỳ tu học, Ngài đi vào làng khất thực, nghe một nữ nhân ca hát, thiền định của Ngài bị thối thất và lòng dục khởi lên. Chế ngự với sức mạnh suy tư, Ngài bước vào tịnh xá rất dao động, Ngài ngồi thiền định vào buổi trưa, phát triển thiền quán, chứng quả A La Hán.
    Rồi Ngài nói lên sự giải thoát của Ngài khỏi đau khổ sanh tử, nhờ nhàm chán các dục trong bài kệ sau đây :
    Nghe tiếng, mất chánh niệm,
    Tác ý tưởng luyến ái,
    Tâm cảm thọ say mê,
    Ðắm trước tưởng an trú,
    Các lậu hoặc tăng trưởng,
    Ðưa đến nhiễm luân hồi.
    97 / Tôn Giả Devasabha ( II ) ( Thera. 14 ) :
    Trong thời Đức Phật hiện tại, Ngài tái sanh trong một gia đình hoàng tộc Thích Ca, và được đặt tên là Devasabha. Khi lớn lên Ngài khởi lòng tin khi Thế Tôn giải quyết sự tranh chấp giữa dòng họ Thích Ca và dòng họ Koliya, Ngài xin quy y ba ngôi báu. Khi Đức Phật ở vườn cây bàng, Ngài đi đến gặp Thế Tôn, lần này Ngài xuất gia, Ngài chứng quả A La Hán, trú trên an lạc giải thoát, Ngài nói lên sự phấn khởi của Ngài với bài kệ như sau :
    Thành tựu chánh tính tấn,
    Sở hành trên niệm xứ,
    Tràn đầy hoa giải thoát,
    Sẽ nhập diệt, vô lậu.
    ......

  • @TinhanhnguyenBui
    @TinhanhnguyenBui 2 หลายเดือนก่อน

    Phật Pháp và Cuộc Sống : Tất cả các Pháp đều là Phật Pháp : ( đoạn 82 ) :
    235 / Xót xa tiệc mặn ở chùa
    Hiện các chùa trên toàn quốc nói chung, trong các dịp lễ lạt đều tổ chức tiệc chay, làm cỗ chay, tuyệt không có bia rượu. Tuy nhiên, qua phản ánh của bạn đọc, cho biết còn một số rất ít nơi vẫn tổ chức tiệc mặn, ăn uống bia rượu vào các dịp lễ.
    Sở dĩ có hiện tượng này là vì những ngôi chùa ấy có đặc điểm riêng, tuy có trụ trì nhưng danh nghĩa là chính, còn về thực chất thì chùa do Ban Quản lý ( các tổ chức đoàn thể địa phương bầu lên ) xây dựng, quản trị, điều hành. Những chùa này vị trụ trì dường như không có thực quyền, Ban Quản trị quyết định mọi Phật sự lớn nhỏ, trụ trì chỉ như ông từ trông coi hương hỏa mà thôi. Hoặc cũng có những chùa vị trụ trì có toàn quyền quyết định các Phật sự đúng như chức năng mà Giáo hội đã giao phó nhưng vì thuận theo tục lệ làng xã vẫn không tổ chức tiệc chay.
    Trước hết cần xác định việc làm cỗ mặn và đãi đằng ăn uống bia rượu trong chùa như vậy là chưa đúng với đạo lý “ yên lạc và chay tịnh ” của nhà Phật. Nên các lễ lạt ở chùa thiết nghĩ không nên mời đãi bia rượu, chỉ thuần tịnh trà nước mà thôi. Chưa nói đến việc Phật tử thì không bia rượu, chỉ xét riêng các tệ nạn phát xuất từ bia rượu hiện nay đã quá nhiều, vì thế nhà chùa tiếp tay thêm cho bia rượu tung hoành nữa thì thật phản cảm và không nên.
    Đối với vấn đề tiệc mặn trong chùa, hiện nay Phật giáo Việt Nam có hệ phái Nam tông ( Kinh và Khmer ) không chủ trương ăn chay nên chùa cũng không làm tiệc chay. Còn các hệ phái Phật giáo khác như Bắc tông, Khất sĩ đều chủ trương ăn chay, dĩ nhiên sẽ làm cỗ và tiệc chay trong chùa. Trừ một số rất ít chùa vẫn duy trì tổ chức tiệc mặn theo phong tục lâu đời của làng xã như đã nói.
    Thiển nghĩ, Giáo hội Phật giáo Việt Nam cần xây dựng và thiết định chuẩn văn hóa cỗ và tiệc chay cho các chùa viện, nhất là các chùa thuộc phái Bắc tông. Phật giáo Bắc tông chiếm đại đa số, theo thời gian đã tạo ra bản sắc đặc thù của chùa Việt là nếp sống thanh đạm, nâu sồng và chay tịnh. Đây mới đích thực là phong tục ngàn xưa của chùa chiền Việt Nam. Nên những ai cho rằng “ ngày Tết, rằm, giỗ, có lễ lạt gì thì cũng cúng mặn và liên hoan tiệc mặn trong chùa ” là phong tục thì chưa đúng. Đây chỉ là một tập tục ( có thể xem là hủ tục ) hình thành gần đây khi đạo pháp suy đồi, chùa chiền bị bỏ hoang, các hoạt động trong chùa gần như bị đồng hóa với đình miếu.
    Chúng tôi nhất trí cao với ý kiến của bạn là cần “ xây dựng nét văn hóa ở chùa là phải yên lạc, chay tịnh ”. Đến chùa thì mặc nhiên phải đi nhẹ, nói khẽ, mặc kín đáo, ăn cỗ chay, uống nước lọc… thanh đạm, thuần khiết và nhẹ nhàng. Còn muốn ăn uống bia rượu thịt thà náo nhiệt chúc tụng linh đình thì về nhà hay ra hàng quán. Cần trả lại không gian văn hóa tâm linh thanh tịnh cho chùa viện. Để làm được việc này, nhất thiết phải có sự quan tâm chỉ đạo của Giáo hội các cấp thì những chùa viện chưa tổ chức tiệc chay mới có thể tiếp thu và điều chỉnh nhằm xây dựng nét văn hóa “ yên lạc và chay tịnh ” nơi chùa viện.
    236 / Nằm nghe pháp có tội không ?
    Người nghe pháp thì luôn tôn trọng Pháp. Ngày xưa, nghe pháp trực tiếp từ các vị Tỳ Kheo thì người thuyết ngồi cao, người nghe ngồi thấp hơn để thể hiện sự cung kính giáo pháp. Ngày nay cũng vậy, khi vào giảng đường vị giảng sư ngồi trên pháp tòa cao, thính chúng ngồi dưới thấp trang nghiêm cung kính lắng nghe.
    Ngoài việc nghe pháp trực tiếp từ những bậc thầy, hiện chúng ta có nhiều phương tiện để có thể tranh thủ nghe pháp mọi lúc mọi nơi. Dĩ nhiên chúng ta đều nghe pháp với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc nhất. Vì cuộc sống hiện đại quá bận rộn nên phần lớn phải tranh thủ nghe pháp. Khá nhiều người nghe pháp trong lúc lái xe, làm việc nhà, làm việc mà không cần quá tập trung, kể cả trong khi thư giãn, nghỉ ngơi.
    Trong tinh thần phương tiện, nếu quá mệt mỏi hay tranh thủ lúc nghỉ ngơi có thể nằm nghe pháp mà không mang tội bất kính.
    ......

  • @TinhanhnguyenBui
    @TinhanhnguyenBui 2 หลายเดือนก่อน

    Trưởng Lão Tăng Kệ - Kinh Tiểu Bộ - Khuddaka Nikàya : Chúng con thành tâm tri ân công đức của Qúy Ngài Đại Trưởng Lão, Trưởng Lão, Hòa Thượng, Sư Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Thượng Minh Hạ Châu, Ni Trưởng, Thượng Tọa, Ni Sư, Đại Đức, Tỳ Kheo, Tỳ kheo Ariyasilo, Tỳ Kheo Ni, Sa Di, Sa Di Ni, Thức Xoa Ma Na, Tu Nữ, Phật Tử, Tứ Chúng, Tăng Đoàn, Đạo Tràng, Tinh Xá,……Của Phật Giáo Theravada, Nam Tông, Bắc Tông,……: ( đoạn 32 ) :
    200 / Tôn Giả Nadikassapa ( Thera. 39 ) :
    Trong thời Đức Phật hiện tại, Ngài sanh trong một gia đình Bà La Môn ở Magadha ( Ma Kiệt Đà ), là anh của Kassapa. Ngài thiên hẳn đời sống xuất gia, không ưa thích đời sống gia đình, và Ngài trở thành một ẩn sĩ. Với ba trăm đồ chúng, Ngài sống một đời sống ẩn sĩ trên bờ sông Neranjarà ( Ni Liên Thiền ), và do vậy Ngài được biết và được gọi là Kassapa ở bên sông ( Nadi - Kassapa ). Ngài được Thế Tôn giáo hóa cùng với hai anh em, như đã được ghi trong Luật tạng. Sau khi Thế Tôn thuyết Kinh Lửa Bốc Cháy, Ngài chứng quả A La Hán. Sau đó, suy tư trên thiền chứng, Ngài nói lên chánh trí của mình, bằng cách nhổ lên các sai lầm :
    Thật lợi ích cho ta
    Ðức Phật đến tại đây,
    Ðến con sông tên gọi
    Sông Nê Răn Ja Ra,
    Ta nghe pháp Ngài giảng
    Ðoạn tận các tà kiến
    Ta hành lễ tế tự,
    Ðọc cao lời tế lễ,
    Ta đốt lên lửa thiêng,
    Ðổ cúng dường vào lửa,
    Nghĩ rằng ta thanh tịnh,
    Ta thật mù, phàm phu.
    Lang thang rừng tà kiến,
    Bị giới cấm, mờ mắt,
    Không tịnh, nghĩ thanh tịnh,
    Mù lòa, ta không thấy
    Ta đoạn tận tà kiến,
    Mọi sanh hữu phá tan,
    Ta đốt lên ngọn lửa,
    Xứng đáng được cúng dường,
    Ta cúi mình đảnh lễ,
    Bậc Như Lai Ðiều Ngự.
    Mọi si mê, ta đoạn,
    Hữu ái được phá hủy,
    Ðường sanh tử đoạn tận,
    Nay không còn tái sanh.
    201 / Tôn Giả Gayà - Kassapa ( Thera. 39 ) :
    Trong thời Đức Phật hiện tại, Ngài sanh trong một gia đình Bà La Môn, câu chuyện Ngài giống như câu chuyện của Nadì - Kassapa, chỉ khác Ngài chỉ có hai trăm đệ tử và sống ở Gayà, Ngài nói lên chánh trí bằng cách tán thán tẩy sạch các điều ác như sau :
    Buổi sáng, trưa, buổi chiều,
    Ba lần trong một ngày,
    Ta xuống dòng Gà Yà,
    Sông Ga Ya Phay Gu.
    Các điều ác, ta làm
    Trong các đời sống trước,
    Nay đây ta rửa sạch,
    Xưa ta tin là vậy.
    Nghe lời nói khéo giảng,
    Con đường đủ pháp nghĩa,
    Với ý nghĩa chân thật,
    Ta như lý quán sát.
    Ta tắm sạch mọi ác,
    Ta không uế, trong sạch.
    Ta trong sạch thuần tịnh,
    Thừa tự bậc trong sạch,
    Ta chính là con trai,
    Con chính tông Đức Phật.
    Lặn vào dòng Tám chánh,
    Ta gột sạch mọi ác,
    Ba minh ta đạt được,
    Lời Phật dạy làm xong.
    202 / Tôn Giả Vakkali ( Thera. 39 ) :
    Trong thời Đức Phật hiện tại, Ngài sanh ở Sàvatthi, trong một dòng họ Bà La Môn và được gọi tên Vakkali. Khi đến tuổi trưởng thành, và học xong ba tập Vệ đà, trở thành thuần thục trong những thành tích Bà La Môn, Ngài thấy Bậc Ðạo Sư, Ngài nhìn không chán thân hình tuyệt vời của Đức Phật, và Ngài đi theo Bậc Ðạo Sư. Khi Ngài trở về nhà, Ngài nghĩ nếu ở lại nhà, Ngài sẽ không có dịp luôn luôn thấy được Đức Phật. Do vậy, Ngài xuất gia, và từ khi ăn uống và tắm rửa, Ngài để toàn thì giờ để chiêm ngưỡng Đức Phật. Bậc Ðạo Sư, chờ đợi thiền quán của Ngài được chín muồi, nên trong một thời gian dài, Đức Phật không nói gì. Một hôm Đức Phật hỏi : “ Này Vakkali, thân bất tịnh này mà Thầy thấy, đối với Thầy như thế nào ? Ai thấy Pháp người ấy tức thấy Ta. Vì rằng thấy Pháp tức là thấy Ta, và thấy ta tức là thấy Pháp “. Nghe lời nói Đức Phật, Ngài không chiêm ngưỡng thân Đức Phật nữa, nhưng Ngài chưa bỏ đi xa được. Bậc Ðạo Sư nghĩ rằng : “ Tỷ Kheo này, nếu không được xúc động mạnh, sẽ không thức tỉnh “, nên vào cuối ngày an cư mùa mưa, Đức Phật nói : Này Vakkali, hãy đi đi “. Nghe Bậc Ðạo Sư nói vậy, Ngài tự nghĩ Ngài phải đi, nhưng nghĩ rằng đời Ngài có ý nghĩa gì, nếu không được gặp Bậc Ðạo Sư, nên Ngài có ý định leo lên núi Linh Thứu để gieo mình xuống vực núi tự tử. Ðức Phật biết được Vakkali có ý định như vậy, nên sợ Ngài phá hoại những điều kiện chứng được thánh quả, nên hiện ra trước mặt Ngài và đọc lên bài kệ :
    Tỷ Kheo nhiều hân hoan,
    Tịnh tín giáo pháp Phật,
    Chứng cảnh giới tịch tịnh,
    Các hạnh an tịnh lạc.
    Ðức Phật đưa tay và nói : “ Hãy đến, này Tỷ Kheo ! “. Vakkali rất lấy làm sung sướng được nghe lời Phật dạy, thấy được điều gì mình đang làm, đứng trên hư không suy tư đến lời Phật dạy, chứng quả A La Hán với sự hiểu biết về nghĩa và về pháp. ( Ðây là những tài liệu được tập sớ của bộ Anguttara Nikàya và tập sớ của Dhammapaca ghi chép lại ).
    Theo những tài liệu khác, Vakkali chưa chứng quả A La Hán, sau khi nghe lời dạy của Bậc Ðạo Sư, Ngài ở trên núi Linh Thứu, phát triển thiền quán. Thế Tôn cho Ngài một đề tài tu tập, nhưng vì quá đói và bị tê liệt nên Ngài không chứng quả được. Biết vậy, Thế Tôn nói với Ngài như sau :
    Bị bệnh gió chi phối,
    Thầy sống trong rừng sâu,
    Chỗ khất thực hạn chế,
    Thân gầy mòn ốm yếu,
    Tỷ Kheo sẽ làm gì ?
    Với thân thể như vậy ?
    Vị Trưởng Lão nói lên sự hân hoan thường xuyên của mình, nhờ được sự an lạc siêu nhân :
    Thân con được tràn ngập,
    Với hỷ lạc tỏa rộng,
    Dầu có bị gầy ốm,
    Con sẽ sống trong rừng.
    Tu tập Bốn niệm xứ,
    Năm căn và Năm lực,
    Tu tập các Giác chi,
    Con sẽ sống trong rừng.
    Con thấy bạn đồng tu,
    Sống hòa hiệp, dõng mãnh,
    Luôn kiên trì tinh tấn,
    Con sẽ sống trong rừng.
    Tùy niệm Phật thiền định,
    Bậc Tối Thượng Ðiều Ngự,
    Ngày đêm không biếng nhác,
    Con sẽ sống trong rừng.
    Khi nói vậy, Ngài phát triển thiền quán và ngay khi ấy chứng quả A La Hán.
    203 / Tôn Giả Vigitasena ( Thera. 39 ) :
    Trong thời Đức Phật hiện tại, Ngài sanh ra trong một gia đình huấn luyện voi ở nước Kosala, và được đặt tên là Vigitasena. Những người Cậu bên Ngoại, Sena và Upasena cả hai đã xuất gia và chứng quả A La Hán. Vigitasena sau khi đã thuần thục nghề của mình, thấy thần thông song hành của Bậc Ðạo Sư khởi lòng tin, và theo bản năng tự nhiên, xin xuất gia dưới sự hướng dẫn của các người Cậu. Nhờ các người Cậu giảng dạy, Ngài đạt đến thiền quán, nhưng tâm trí ngài thiên về lý luận chạy theo những vật bên ngoài, nên Ngài giảng dạy cho tâm trí Ngài như sau :
    Ta sẽ chế ngự ngươi,
    Như cửa khóa ngăn voi,
    Ta sẽ không thúc ngươi,
    Này tâm trong điều ác,
    Ngươi chính là lưới dục,
    Ngươi do thân sanh ra.
    Chế ngự ngươi không đi,
    Như voi, không cửa mở,
    Này tâm, kẻ phù thủy,
    Dầu ngươi cố gắng mãi,
    Ngươi không còn lang thang,
    Ưa thích làm điều ác.
    Như người cầm câu móc,
    Ngăn mãi voi chưa thuần,
    Như người dùng sức mạnh,
    Cải hóa kẻ không muốn,
    Cũng vậy đối với ngươi,
    Ta sẽ cải hóa ngươi.
    Như bánh xe tuyệt hảo,
    Khéo huấn luyện ngựa hay,
    Cũng vậy ta điều ngươi,
    Dựa lên trên Năm lực.
    Ta sẽ cột chặt ngươi,
    Với chánh niệm vững chắc,
    Tự mình đã chế ngự,
    Ta sẽ chế ngự ngươi,
    Nhờ sức nặng tinh tấn,
    Ngươi được ta áp lực,
    Do vậy, hỡi này tâm,
    Ngươi sẽ không xa ta.
    ......

  • @TinhanhnguyenBui
    @TinhanhnguyenBui 3 หลายเดือนก่อน

    Nam Mô Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo
    Nam Mô Ta Bà Giáo Chủ Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
    ( Mỗi người hãy tự mình thấp đuốc lên mà đi, hãy tự làm hòn đảo cho chính mình. Tin chắc rằng : Phật, Pháp, Tăng là thường trụ, Phật luôn ở trạng thái Niết Bàn “ tuyệt đối “; Phật giác ngộ là tự mình, do trí “ vô sư, chứ không hải trí hữu sư “; Phật quan sát và nhìn cuộc đời, sự vận hành của tất cả các Pháp mà giác ngộ vì “ tất cả các Pháp đều là Phật Pháp “, “ Như Lai là nghĩa các Pháp như như “; “ Tất cả chúng sinh dù hữu tình hay vô tình đều có Phật tánh “; “ Tất cả các Pháp đều vận hành theo lý “ Duyên sinh “, “ Nhân qủa “, “ Phước nghiệp “……; Khi chiêm ngưỡng tượng Phật, Chúng ta cố gắng thường hình dung Đức Phật đản sanh ở Ca Tỳ La Vệ, Phật thành đạo ở Bồ Đề Đạo Tràng, Phật thuyết pháp ở Ba La Nại và Phật nhập diệt ở Câu Thi Na; đó chính là 04 động tâm, tức 04 điểm kích động tâm chúng ta, tác động căn lành chúng ta khiến chúng ta phát tâm đến với Phật. Nếu chúng ta không phát được tâm Bồ đề, đương nhiên không thể đến với Phật, không thể hiểu Phật và không thấy Phật ).
    Nam Mô Thường Tịch Quang Độ Thanh Tịnh Diệu Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na Phật.
    Nam Mô Thập Đại Thị Giả, Tôn Giả, Thập Tam Đại Tỳ Kheo Ni, Một Ngàn Hai Trăm Năm Mươi Năm Vị Tôn Giả, Trưởng Lão, Đại Đức, Sáu Ngàn Vị Sa Di Ni, Hòa Thượng, Ni Trưởng, Sư, Thượng Tọa, Ni Sư, Đại Đức, Sư Cô, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Thức Xoa Ma Na, Sa Di, Sa Di Ni, Tứ Chúng, Tinh Xá, Đạo Tràng, Tăng Đoàn Của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Tăng Đoàn Của Các Đức Phật Khác Trong Ba Thời Qúa Khứ, Hiện Tại, Vị Lai.
    Nam Mô Tây Thiên ( Ấn Độ ), Đông Độ ( Trung Hoa ), An Nam ( Việt Nam ), Xiêm La ( Thái Lan ) Truyền Giáo Lịch Đại Tổ Sư Giác Linh.
    Nam Mô Pháp : Nhất tâm đảnh lễ : Chúng con nguyện y giáo phụng hành :
    + Nam Mô Đại Thừa Pháp Bảo Tôn Kinh Kinh Phật Thuyết Kinh Vạn Phật
    Nam Mô Tăng.
    Nam Mô Phật. Nam Mô Pháp. Nam Mô Tăng.
    Chúng con thành tâm tri ân công đức của Ngài Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi, Thầy Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Thượng Thiền Hạ Tâm và Các Qúy Tôn Đức Khác :
    + Chín mươi mốt kiếp về quá khứ, có Đức Phật tên Tỳ Bà Thi Như Lai, Phật thọ số tám mươi ngàn kiếp. Phật sanh vào nhà Sát Đế Lợi, Phật họ Câu Lân, Phật dưới cây Ba Tra La đắc quả A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, Phật có ba nhóm Thinh Văn. Hàng Đệ tử Thinh Văn thứ nhất một tên Kiết Sa, hai tên Khán Trà. Phật có thị giả tên Vô Ưu, Phật có con tên Thành Âm. Phật có Cha tên Bàn Đầu, Mẹ tên Bàn Đầu Ý, thành tên Bàn Đầu.
    忍辱爲第一; 佛說無爲最; 不以剃鬚髮; 害他爲沙門
    Nhẫn nhục vi đệ nhất; Phật thuyết vô vi tối; Bất dĩ thế tu phát; Hại tha vi sa môn.
    Tạm dịch : Nhẫn nhục là bậc nhất; Niết bàn là tối thượng; Xuất gia não hại người; Không xứng danh Sa môn.
    + Ba mươi kiếp về quá khứ, có Đức Phật tên Thi Khí Như Lai, Phật thọ số sáu mươi ngàn kiếp. Phật sanh vào nhà Sát Đế Lợi, Phật họ Câu Lân, Phật dưới cây Phân Đà Lợi đắc quả A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, Phật có ba nhóm Thinh Văn. Hàng Đệ tử Thinh Văn thứ nhất một tên Tinh Tú, hai tên Thượng. Phật có thị giả tên Ly Úy, Phật có con tên Bất Khả Lượng. Phật có Cha tên Câu Na, Mẹ tên Thắng, thành tên A Lầu Na Bạt Đề.
    若眼見非邪; 者不座牀亦復然; 執志爲專一; 是則諸佛敎
    Nhược nhãn kiến phi tà; Tọa sàng diệc phục nhiên; Chấp chí vi chuyên nhất; Thị tắc chư Phật giáo
    Dịch nghĩa : Như mắt thấy sai quấy; Chỗ nằm ngồi cũng vậy; Giữ chí cho chuyên nhất; Là lời chư Phật dạy.
    + Ba mươi kiếp về quá khứ, có Đức Phật tên Thi Khí Như Lai, trong kiếp đó lại có Tỳ Xá Phù Như Lai, Phật thọ số hai ngàn kiếp. Phật sanh vào nhà Sát Đế Lợi, Phật họ Câu Lân, Phật ở dưới cây Ta La đắc quả A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, Phật có hai nhóm Thinh Văn. Phật có thị giả tên Tịch, Phật có con tên Thiện Trí. Phật có Cha tên A Lầu Na Thiên Tử, Mẹ tên Xứng Ý, thành tên Tùy Ý.
    不 害 亦 不 非; 奉 行 於 大 戒; 於 食 知 止 足; 座 牀 亦 復 然; 執 志 爲 專 一; 是 則 諸 佛 敎
    Bất hại diệc bất phi; Phụng hành ư đại giới; Ư thực tri chỉ túc; Tọa sang diệc phục nhiên; Chấp chí vi chuyên nhất; Thị tắc chư Phật giáo
    Tạm dịch : Không hại, không sai trái; Luôn hành trì đại giới; Ăn uống biết dừng đủ; Chỗ nằm ngồi cũng vậy; Giữ chí cho chuyên nhất; Là lời chư Phật dạy.
    + Trong kiếp Hiền có Phật Câu Lưu Tôn, Phật thọ số mười bốn tiểu kiếp. Phật sanh vào nhà Bà La Môn, Phật họ Ca Diếp, Phật ở dưới cây Ưu Đầu Bạt Đề đắc quả A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, Phật có một nhóm Thinh Văn,……Phật có thị giả tên Trí, Phật có con tên Thượng. Phật có Cha tên Công Đức, Mẹ tên Quang Bỉ Thiên Tử Vô Úy, thành tên Vô Úy.
    譬如蜂採花; 其色甚香潔; 以味惠施他; 道士遊聚落; 不誹謗於人; 亦不觀是非; 但自觀身行; 諦觀正不正
    Thí như phong thái hoa; Kỳ sắc thậm hương khiết; Dĩ vị huệ thí tha; Đạo sĩ du tụ lạc
    Bất phỉ báng ư nhân; Diệc bất quán thị phi; Đản tự quán thân hành; Đế quán chánh bất chánh
    Tạm dịch : Như ong hút mật hoa; Hương sắc hoa càng thắm; Đem vị ban cho người; Tỳ kheo vào làng xóm
    Không phỉ báng một ai; Thị phi chẳng nhìn đến; Chỉ xét hành vi mình; Có đoan chính hay không.
    + Trong kiếp HIền có Phật Câu Na Hàm Mâu Ni, Phât thọ số ba mươi tiểu kiếp. Phật sanh vào nhà Bà La Môn, Phật họ Ca Diếp, Phật ớ dưới cây Thi Lợi Sa đắc quả A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, Phật có một nhóm Thinh Văn. Hàng Đệ tử thinh Văn thứ nhất một tên là Hượt ( sống ), hai tên là Tỳ Đầu La. Phật có thị giả tên Thân ( gần ), Phật có con tên Thắng. Phật có Cha tên Hỏa Đức, Mẹ tên Nan Thắng Thiên Tử Trang Nghiêm, thành tên Trang Nghiêm.
    執志莫輕戲; 當學尊寂道; 賢者無愁憂; 當滅志所念
    Chấp chí mạc khinh hý; Đương học tôn tịch đạo; Hiền giả vô sầu ưu; Đương diệt chí sở niệm
    Tạm dịch : Giữ tâm chớ khinh đùa; Cần học đạo tịch diệt; Hiền giả không sầu lo; Quyết tâm diệt sở niệm.
    + Trong kiếp Hiền có Phật Ca Diếp, Phật thọ số hai mươi tiểu kiếp. Phật sanh vào nhà Bà La Môn, Phật họ Ca Diếp, Phật ở dưới cây Ni Câu Luật đắc quả A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, Phật có một nhóm Thinh Văn. Hàng Đệ tử Thinh Văn thứ nhất một tên là Du Na, hai tên là Phạ La Đọa. Phật có thị giả tên Ca Thiên, Phật có con tên Đạo Sư. Phật có Cha tên Tịnh Đức, Mẹ tên Thiện Tài Thiên Tử Tri Sử, thành tên Tri Sử ( thành Ba La Nại ).
    一切惡莫作; 當奉行其善; 自淨其志意; 是則諸佛敎
    Nhất thiết ác mạc tác; Đương phụng hành kỳ thiện; Tự tịnh kỳ chí ý; Thị tắc chư Phật giáo
    Tạm dịch : Đừng làm các điều ác; Vâng làm các điều thiện; Giữ tâm ý trong sạch; Là lời chư Phật dạy.
    + Trong kiếp Hiền có Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật thọ số chỉ trong vòng một trăm năm. Phật sanh vào nhà Sát Đế Lợi, Phật họ Cù Đàm, Phật ở dưới cây A Thuyết Tha đặng A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, Phật có một nhóm Thinh Văn. Hàng Đệ tử Thinh Văn thứ nhất một tên là Xá Lợi Phất ( trí tuệ đệ nhất ), hai tên là Mục Kiền Liên ( thần thông đệ nhất ). Phật có thị giả tên Khánh Hỷ ( A Nan Đà ), Phật có con tên La Hầu La. Phật có Cha tên Du Đầu Đàn ( Tịnh Phạn Vương ), Mẹ tên Ma Ha Ma Da, thành tên Ca Tỳ La.
    護口意清淨; 身行亦清淨; 淨此三行迹; 修行仙人道
    Hộ khẩu ý thanh tịnh; Thân hành diệc thanh tịnh; Tịnh thử tam hành tích; Tu hành tiên nhân đạo
    Tạm dịch : Giữ miệng, ý thanh tịnh; Thân hành cũng trong sạch; Ba nghiệp đều thanh tịnh; Đạo Như Lai tu hành.

  • @TinhanhnguyenBui
    @TinhanhnguyenBui 2 หลายเดือนก่อน

    Phật Pháp và Cuộc Sống : Tất cả các Pháp đều là Phật Pháp : Chúng sanh đa bệnh - Phật Pháp đa phương : ( đoạn 172 ) :
    520 / Thờ tượng Phật ngoài trời tại tư gia có phạm pháp ?
    Trước hết chúng tôi hoan nghênh tinh thần “ là Phật tử chân chánh, luôn tôn trọng pháp luật ” của bạn. Là một công dân tốt, một Phật tử mẫu mực thì điều đầu tiên phải tuyệt đối tuân thủ pháp luật.
    Nói về pháp luật thì đương nhiên là đúng đắn, quy định cụ thể, chi tiết và ngày tháng rõ ràng. Pháp luật luôn được công khai, mọi người đều biết rõ để cùng nhau chấp hành. Trường hợp cán bộ xã buộc người dân thực thi pháp luật mà chỉ nói chung chung, ra lệnh bằng miệng, cố tình giấu giếm hoặc không dựa vào văn bản pháp luật hiện hành nào cả là điều không thể chấp nhận.
    Bạn là người dân nên vốn không mấy am tường về các văn bản pháp luật, nhất là các nghị định, nghị quyết… mới, nên có quyền yêu cầu cán bộ hướng dẫn cụ thể để hiểu và chấp hành. Nếu cán bộ không đưa ra văn bản pháp luật nào mà bắt buộc hay cưỡng chế người dân di dời một công trình nào đó thì chính các cán bộ ấy vi phạm pháp luật.
    Có hai vấn đề cần đặt ra trong trường hợp của bạn, nếu thực sự có văn bản pháp luật mới quy định cấm “ thờ tượng Phật ngoài trời ” tại tư gia thì phải xem thời gian ra đời của văn bản đó. Bạn đặt tượng từ 07 năm trước, nay mới có quy định thì chắc chắn bạn không vi phạm pháp luật. Trong trường hợp này, cán bộ nên ân cần vận động, nhẹ nhàng giải thích, hỗ trợ nhiều cách cho người dân hiểu vấn đề để họ tự nguyện thực thi pháp luật vì lợi ích chung. Ngược lại, nếu bạn dựng tượng sau ngày ban hành văn bản pháp luật thì bạn đã phạm pháp. Trường hợp này cán bộ mới có quyền xử lý người vi phạm theo pháp luật hiện hành.
    Về phương diện văn bản pháp luật, chúng tôi đã tìm hiểu Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo ( số 21 / 2004 / PL - UBTVQH11, ngày 18 - 6 - 2004 ), Nghị định số 92 / 2012 / NĐ - CP ( do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký ngày 8 - 11 - 2012 về tín ngưỡng, tôn giáo ), Hiến chương Giáo hội Phật giáo Việt Nam ( tu chỉnh lần 5 ), Nội quy Ban Hướng dẫn Phật tử Trung ương ( tu chỉnh lần 4 )… và cũng chưa tìm thấy quy định cấm “ thờ tượng Phật ngoài trời ” tại tư gia Phật tử.
    Điều đáng nói là hiện nay, một số địa phương trên cả nước vẫn tồn tại việc chính quyền yêu cầu người dân Phật tử tháo dỡ, di dời tượng thờ lộ thiên tại tư gia ( ra lệnh bằng miệng ) mà hầu như không đưa ra một văn bản pháp luật nào cả. Điều này khiến cho không ít Phật tử bức xúc phản đối cũng như tạo ra sự lúng túng trong khi xử lý vấn đề của chính quyền địa phương. Thiết nghĩ, Giáo hội Phật giáo Việt Nam cần phối hợp với các ban ngành chức năng của Nhà nước sớm ban hành quy chế cụ thể về tượng thờ lộ thiên ( như địa điểm và cách thức tôn trí, kích thước tôn tượng… ) để người Phật tử được tự do thể hiện tín ngưỡng cũng như sự quản lý của Nhà nước được thuận tiện và rõ ràng.
    Cần nói thêm rằng, trong đời sống thực tiễn xã hội, việc Phật tử thờ tượng Bồ tát lộ thiên ở trên sân thượng, non bộ và trong sân vườn tại tư gia Phật tử là truyền thống lâu đời và rất phổ biến. Trong tín ngưỡng thờ phụng của Phật giáo, hầu hết các vị Phật và Bồ tát, Thánh tăng thường thờ trong chánh điện, đặc biệt riêng Bồ tát Quán Thế Âm thường được thờ ngoài trời, ngoài biển, ngoài vườn ( quen gọi là Quán Âm lộ thiên ).
    Trở lại vấn đề, bạn đang sống trong một xã hội với hệ thống pháp luật tương đối hoàn chỉnh và nghiêm minh. Vì thế, nếu chính quyền xã nơi bạn cư trú không đưa ra văn bản nào của Nhà nước quy định cấm “ thờ tượng Phật ngoài trời ” tại tư gia Phật tử thì bạn không có nghĩa vụ chấp hành, và bạn hoàn toàn không vi phạm pháp luật.
    521 / Cần làm phước để hồi hướng
    Trong vòng 49 ngày là khoảng thời gian tốt nhất cho thân nhân làm phước rồi hồi hướng công đức cho người thân đã mất. Cách thức làm phước thì rất đa dạng, nhưng thông dụng và phổ biến hơn cả là phát tâm tụng kinh, cúng dường, bố thí, ăn chay, ấn tống kinh sách, phóng sanh,…nói chung là hướng Phật, làm lành.
    Cần lưu ý là, việc làm phước của thân nhân chỉ có tác dụng trợ duyên nhằm “ ảnh hưởng tốt nhất đến tiến trình tái sanh ” mà thôi chứ không mang tính quyết định. Chính nghiệp lực của mỗi người tốt hay xấu kết hợp với khả năng thức tỉnh nhiều hay ít mới là nhân tố quan trọng quyết định xu hướng tái sanh vào cảnh giới lành hay dữ trong lục đạo.
    Sau khi hỏa táng, tro cốt người mất nên thờ ở chùa hay nghĩa trang; ở nhà chỉ nên thờ di ảnh mà thôi.
    522 / Thân trung ấm tồn tại có trái ngược với giáo lý Vô ngã ?
    Đúng là trong Kinh Bát Nhã, Đức Phật dạy “ năm uẩn đều không ”. Khó hiểu nhất trong lời dạy này là chữ Không. Không đây không phải mang nghĩa đối lập với có, là không có gì cả mà siêu việt nghĩa có - không thường tình. Không chính là không có tự tính, duyên khởi tính, vô ngã tính, là Sunyata. Như vậy, Phật dạy thân năm uẩn này là không có tự ngã, do duyên sanh chứ không nói thân này là “ không có cái gì cả ”.
    Ngoài giáo lý duyên sanh, vô ngã, Đức Phật còn dạy về luân hồi và tái sanh. Con người sau khi chết không mất hẳn mà tái sanh vào trong lục đạo tương ứng với nghiệp của mình. Vậy cái gì đi tái sanh ? Cái đó, tạm gọi là “ thần thức - hương linh - thân trung ấm - trung hữu ”. Điều đáng nói là cái thần thức… này không phải là linh hồn trường cửu, bất biến ( như quan niệm của các tôn giáo khác ) mà nó cũng duyên sanh, vô ngã như thân năm uẩn vậy. Có thể nói, khi còn sanh tiền năm uẩn đều Không, khi mất rồi thần thức… cũng đều Không. Và như thế, không có gì chấp ngã hay không đúng với “ lời kinh, ý Phật ” hoặc “ ngược lại với giáo lý vô thường, vô ngã, tánh không ” cả.
    Theo chỗ bạn biết : “ thời Đức Phật còn trụ thế, Ngài chưa từng nói về lễ cầu siêu, cũng chưa từng có thuyết linh ”, thiết nghĩ, bạn có biết nhưng chưa trọn. Trước hết, đối tượng để cầu siêu không phải chỉ có thần thức, thân trung ấm mà các chúng sanh trong ác đạo ( đặc biệt là loài ngạ quỷ sống quanh ta ). Thời Phật tại thế, chính Đức Phật cũng như các Tỳ kheo nói pháp khai thị ( thuyết linh ) cho các ngạ quỷ, dạ xoa, la sát giác ngộ, bỏ tà quy chánh rất nhiều. Mặt khác, mỗi khi có người qua đời, tứ chúng thường hỏi Thế Tôn vị ấy sanh về nơi nào, Thế Tôn thường nói cho tứ chúng biết rõ người ấy đã siêu thoát hay bị đọa lạc. Và như thế, lễ cầu siêu hiện nay là hoàn toàn cần thiết trong tâm nguyện cầu âm siêu, dương thái của mọi người.
    Vấn đề “ Đức Thế Tôn có phải đang dần bị các thứ nghi lễ kia thần thánh hóa, biến thành vị thần xin thì cho, cầu thì ban hay không ” hoàn toàn tùy thuộc vào tuệ giác, chánh kiến của những người thực hành các nghi lễ cầu an, cầu siêu. Nếu những thí chủ tổ chức lễ chỉ nhằm “ xin, cầu ” Phật cho họ an, siêu và những vị Tăng ( Ni ) cũng nhắm mắt “ xin, cầu ” giúp cho thí chủ mà không khai hóa, hướng dẫn họ hiểu và tu học đúng như Chánh pháp thì việc này không phải là Phật sự đúng nghĩa. Bởi Phật không có quyền ban phúc hay giáng họa cho ai nên “ xin, cầu ” thì Ngài cũng không giúp được ( huống là những Tăng, Ni bình thường ). Chỉ có nhân quả mới thực sự có quyền năng, nên hãy gieo nhân lành để gặt phước quả tốt đẹp. Phật dạy nên “ xin, cầu ” điều tốt để hưởng quả lành. Cầu siêu cũng vậy, Phật cũng không giúp cho họ siêu sanh, và chúng ta không một ai có thể làm cho họ siêu sanh, trừ việc chính họ tỉnh thức mà thăng hoa, siêu thoát.
    Đức Phật là bậc Giác ngộ, giáo pháp của Ngài luôn đồng nhất một vị giải thoát. Vì thế, cần nghiên tầm và thực hành theo đúng Chánh pháp để được lợi ích, an lạc.
    ......

  • @TinhanhnguyenBui
    @TinhanhnguyenBui 2 หลายเดือนก่อน

    Phật Pháp và Cuộc Sống : Tất cả các Pháp đều là Phật Pháp : ( đoạn 78 ) :
    220 / Chuyển hóa bệnh tật theo quan điểm Phật pháp
    Bệnh tật, theo quan điểm Phật pháp là do thừa tự các nghiệp xấu ở quá khứ. Nghiệp xấu ở đây chủ yếu là do não hại, đánh đập, hành hạ các loài hữu tình, không tu dưỡng tâm từ ( Kinh Trung bộ, kinh Tiểu nghiệp phân biệt, số 135 ). Nghiệp nhân gây bệnh tật có cũ và mới. Nghiệp cũ thì như đã nói, nghiệp mới có thể là tiếp tục bức hại sinh vật hoặc do các hành vi lối sống không lành mạnh góp phần gây ra tật bệnh.
    Bệnh do nghiệp mà sinh, muốn hết bệnh thì phải chuyển nghiệp. Đi khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế hợp pháp là cách chuyển nghiệp đầu tiên. Tại đây, bác sĩ sẽ chỉ ra bệnh trạng, các nguyên nhân gây bệnh ( di truyền, ăn uống, lối sống v.v… ), cách chữa lành bệnh. Tuân thủ theo phác đồ điều trị và các hướng dẫn của bác sĩ chính là cách chuyển hóa bệnh nghiệp.
    Tuy nhiên, ngành y khoa không phải toàn năng nên có bệnh thì chữa lành, có bệnh chỉ chữa bớt vài phần, có bệnh thì chờ… nghiên cứu thêm. Thế nên, người Phật tử khi mang bệnh, ngoài trị liệu theo y khoa cần gia tâm sám hối, làm thiện để hồi hướng công đức, đây là cách chuyển nghiệp tiếp theo. Sám hối để tiêu trừ oan nghiệp đã tạo trong quá khứ. Làm thiện để vun bồi thêm phước báo hiện tại. Khi tội diệt, phước sinh thì góp phần tích cực cho việc chuyển hóa bệnh tật và các điều không như ý khác trong cuộc sống.
    Oan gia trái chủ là cách nói trong dân gian, chỉ cho nhân quả của các nghiệp cũ. Không nên hiểu oan gia trái chủ theo kiểu “ vong theo báo oán ” rồi cầu cúng để xin giải nghiệp. Tùy theo mức độ nặng nhẹ của nghiệp cũ và nghiệp quả xấu ấy đã chín muồi hay chưa để biết quá trình chuyển hóa bệnh nghiệp thành công được nhiều hay ít ( bệnh có chữa lành hay không ). Bởi khi nghiệp quả xấu đã đến gần với cường độ mạnh mẽ thì rất khó để hóa giải, nói cách khác là không ai có thể cứu được.
    Người Phật tử có chánh kiến cần nhận thức các vấn đề liên quan đến bệnh nghiệp theo quy luật nhân - duyên - quả. Tránh các niềm tin sai lạc, tà kiến, rơi vào mê tín, cầu cúng để cầu mong khỏi bệnh chỉ tiền mất tật mang.
    221 / Làm nghề chăn nuôi có tạo nghiệp sát ?
    Nghiệp sát được tạo ra khi hội đủ năm yếu tố : Có tâm sát hại, có đối tượng để giết ( người hay vật ), tưởng đó là đối tượng, dùng các phương tiện giết, đối tượng bị giết chết. Bạn làm công việc chuyên môn như nuôi vật, chữa bệnh, phối giống v.v... trong trang trại, chắc chắn bạn không tạo nghiệp sát ( biệt nghiệp ).
    Tuy vậy, về phương diện cộng nghiệp giết hại thì hầu như ít ai có thể tránh khỏi, không nhiều thì ít, không nặng thì nhẹ. Cộng nghiệp giết hại phần lớn được tạo ra theo cách gián tiếp nên sám hối được và chuyển hóa dễ dàng nếu cố gắng tu tập, tích phước, hành thiện. Vì thế bạn hãy yên tâm với công việc chuyên môn của mình.
    222 / Hiểu đúng về nhân quả
    Kinh Nhân quả ba đời ( Tam thế nhân quả kinh ) là kinh điển Hán truyền, có nhiều bản Việt dịch, hiện được lưu hành rộng rãi trong và ngoài nước. Trong Hán tạng, kinh này có nhiều dị bản, đơn cử như bản đời Đường, Sa Môn Già Phạm Đạt Ma ( dịch từ Phạn sang Hán ); bản đời Minh của Lâm Thục Quyên.
    Hiện có nghi vấn kinh Nhân quả ba đời không phải do Phật Thích Ca thuyết giảng mà được kết tập rất muộn về sau. Trong danh mục 129 ngụy kinh do chùa Đông Lâm ( Lô Sơn, Trung Quốc ) công bố có kinh này, xếp thứ 125 (www.fodizi.net/qt/qita/12009.html). Xác định kinh này là do Phật nói hay không, là chơn kinh hay ngụy kinh là thẩm quyền của Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam. Ở đây chúng ta chỉ tìm hiểu một số cấu trúc và tương quan nhân quả mà bản kinh này đề cập.
    Kinh Nhân quả ba đời có cấu trúc nhân quả đơn tuyến. Nghĩa là do đời trước tạo nhân gì, đời này nhận quả gì. Về căn bản, cấu trúc nhân quả này không sai nhưng xét kỹ về tương quan nhân quả thì không hoàn toàn đúng. Ngay trong Kinh tạng Pali, một số kinh cũng có cấu trúc nhân quả dạng này. Kinh Tiểu nghiệp phân biệt ( Trung bộ kinh, số 135 ), Đức Phật cũng nói đến một số nhân và quả dạng đơn tuyến, đơn cử như đời trước sát sinh thì đời này đoản mạng, nếu không sát sinh được trường thọ v.v… Thiết nghĩ, thuyết minh cấu trúc nhân quả đơn tuyến là một cách khái quát về nhân quả, mang ý nghĩa giáo dục đạo đức, giúp cho người nghe dễ hiểu và tin về nhân quả hơn.
    Thực chất thì nhân quả có cấu trúc đa tuyến, nói đúng là nhân - duyên - quả. Nhân quá khứ thì cố định, duyên quá khứ hoặc hiện tại thì linh động, vì thế quả hiện tại cũng biến động theo, lệch hướng so với nhân. Mặt khác, nhân - duyên - quả của tiến trình này lại làm nhân - duyên - quả của các tiến trình khác. Chúng tương tác, ảnh hưởng lẫn nhau vô cùng vô tận trong quá trình vận hành để trổ quả trong hiện tại. Thành ra nói “ nhân như thế nào thì quả như thế nấy ” không hoàn toàn đúng với vận hành nhân - duyên - quả.
    Thế nên, cần nhận thức nhân quả bằng tuệ giác duyên sinh, thấy rõ tính “ trùng trùng duyên khởi ” của vận hành nhân quả. Nhờ hiểu nhân quả với tuệ giác duyên sinh nên chúng ta mới có thể sám hối và chuyển nghiệp được. Bản chất của nhân quả là vô ngã. Nếu không tu tập thì đúng nhân nào quả nấy. Còn nếu có tu tập chuyển hóa tốt thì các nhân xấu trước đây bị lệch hướng, thậm chí bị triệt tiêu, được hóa giải hoàn toàn. Đây chính là cơ sở để người tu thành tựu đạo quả ngay trong đời này.
    ......

  • @TinhanhnguyenBui
    @TinhanhnguyenBui 2 หลายเดือนก่อน

    Phật Pháp và Cuộc Sống : Tất cả các Pháp đều là Phật Pháp : Chúng sanh đa bệnh - Phật Pháp đa phương : ( đoạn 216 ) :
    665 / Phật lịch được tính như thế nào ?
    Niên đại Đản sinh và nhập Niết Bàn của Đức Phật Thích Ca, về phương diện nghiên cứu độc lập hiện tồn nhiều thuyết khác nhau, nhưng về phương diện phổ quát, Phật giáo thế giới đều thống nhất Đức Phật Thích Ca đản sinh năm 624 ( trước Tây lịch ) và nhập Niết Bàn năm 544 ( trước Tây lịch ), trụ thế 80 năm.
    Về Phật lịch, Phật giáo thế giới lấy mốc năm Đức Phật Thích Ca nhập Niết Bàn để tính năm đầu Phật lịch ( 544 trước Tây lịch ). Khởi nguyên từ Đại hội Phật giáo Thế giới tổ chức lần thứ I tại Sri Lanka ( Tích Lan ) vào năm 1950, toàn thể đại biểu Phật giáo đại diện 26 quốc gia thống nhất lấy năm Đức Phật Thích Ca nhập Niết Bàn làm mốc để tính năm đầu Phật lịch ( cờ Phật giáo thế giới cũng được quyết nghị công bố và áp dụng tại Đại hội lịch sử này ). Đến Đại hội Phật giáo thế giới lần thứ VI, tổ chức tại Campuchia vào năm 1961, thống nhất ngày kỷ niệm Phật đản sinh trên toàn thế giới là ngày rằm tháng Tư âm lịch ( ngày trăng tròn tháng Vesak của Ấn Độ ).
    Cách tính Phật lịch là lấy năm Đức Phật nhập Niết Bàn cộng với năm hiện tại. Ví dụ, năm 2023 thì Phật lịch được tính : 544 + 2023 = 2567. Tuy nhiên, nói năm 2023 ứng với Phật lịch 2567 là nói chung, chính xác phải tính được ngày để sang năm mới Phật lịch.
    Hiển nhiên, Phật giáo thế giới đã chọn năm Phật Thích Ca nhập diệt làm mốc tính năm đầu Phật lịch thì chắc chắn ngày sang trang Phật lịch trong năm phải là ngày kế sau ngày Đức Phật nhập diệt. Nhưng thực tế hiện nay, ngày sang trang Phật lịch trong năm lại là ngày kế sau ngày Đức Phật đản sanh ( ngày 16 - 4 âm lịch ).
    Vì sao như vậy ?
    Theo Phật giáo Bắc truyền, Đức Phật Thích Ca đản sanh ngày 15 - 4 âm lịch ( trước năm 1960 là ngày 08 - 4 âm lịch ), Thành đạo ngày 08 - 12 âm lịch và Nhập diệt ngày 15 - 02 âm lịch. Theo Phật giáo Nam truyền, ngày 15 - 04 âm lịch ( ngày trăng tròn tháng Vesak ) là ngày Đại lễ Tam hợp, kỷ niệm ba sự kiện Phật Thích Ca Đản sanh, Thành đạo và nhập Niết Bàn. Hiện Phật giáo thế giới đã chuẩn hóa ngày sang trang Phật lịch là ngày kế sau ngày Phật Niết Bàn ( ngày 16 - 04 âm lịch ) hàng năm. Nhưng vì ngày Phật nhập diệt trùng với ngày Phật đản sanh ( theo Phật giáo Nam truyền ) nên khiến nhiều người nghĩ rằng sau ngày Phật đản là ngày sang trang Phật lịch.
    Như vậy, sau khi xác định được ngày sang trang năm mới Phật lịch là ngày 16 - 04 âm lịch hàng năm, thì ngay trong năm 2023, trước ngày 16 - 04 âm lịch ( trước 03 - 6 - 2023 ) Phật lịch vẫn tính 2566, từ ngày 16 - 04 âm lịch ( 03 - 6 - 2023 ) trở đi cho đến Phật đản năm sau, Phật lịch được tính 2567.
    Như đã trình bày, hai truyền thống Phật giáo lớn trên thế giới đều thống nhất về năm Phật lịch đầu tiên là năm Đức Phật nhập Niết Bàn. Tuy vậy, về ngày Đức Phật nhập Niết Bàn giữa hai truyền thống Phật giáo có chút khác biệt ( Nam truyền ngày 15 - 04 âm lịch, Bắc truyền ngày 15 - 02 âm lịch ), và Phật giáo thế giới chọn ngày 16 - 04 âm lịch để sang trang năm mới Phật lịch là theo Phật giáo Nam truyền.
    666 / Không tin vào bói toán
    Hai vợ chồng của bạn trước khi cưới nhau đã có chánh kiến, quyết không tin vào bói toán, tuổi tác hạp kỵ... thì nên giữ vững lập trường của mình. Còn việc bạn không may bị sẩy thai đứa con đầu lòng cũng là chuyện bình thường, nếu đó là bệnh thì chạy chữa theo hướng dẫn của bác sĩ. Không nên đi xem bói toán vì nếu sa vào tà kiến này thì chỉ tiền mất tật mang. Theo Chánh pháp của Đức Phật, các lễ “ giải đàn kim lâu ”, lễ “ tào quan, đám cưới âm ” là tín ngưỡng dân gian đều không có ích gì cho việc tăng phước, chuyển nghiệp hay chính xác là những việc cầu cúng ấy không thể can thiệp vào đời sống hạnh phúc hôn nhân hay việc sinh con đẻ cái như một số người nhẹ dạ cả tin.
    Vì thế, vợ chồng bạn hãy tin tưởng sâu sắc vào nhân quả, nghiệp báo mà lo tu tạo phước điền, chuyển hóa ba nghiệp. Trước, các bạn nên đi khám bệnh, tìm hiểu thêm về sức khỏe sinh sản để chuẩn bị mang thai và sinh con. Kế đến, là Phật tử phải tuyệt đối nương theo Chánh pháp, nhân quả rất rõ ràng, nghiệp nhân do mình tạo thì nghiệp quả mình mang, nếu tạo nghiệp nhân thiện lành ắt hẳn sẽ có nghiệp quả tốt đẹp. Phải làm chủ đời mình bằng cách nâng cao hiểu biết để không rơi vào mê tín, tà kiến, đồng thời nỗ lực tu học, vun bồi công đức, sống thiện lành thì chắc chắn các bạn sẽ bình an và hạnh phúc.
    667 / Băn khoăn về thời gian thọ giới
    Về nguyên tắc, khi phát nguyện trước Tam bảo xin thọ trì giới Bát quan trai đúng theo giới luật là một ngày một đêm. Sở dĩ Đức Phật chế định thời gian khóa tu Bát quan trai cho hàng Phật tử kéo dài đến 24 giờ vì nếu ít hơn thì không đủ thời lượng để lắng đọng tâm tư nhằm chuyên tâm tu niệm, còn nếu dài hơn thì người cư sĩ sẽ không có thời gian, và nhất là không kham nổi nếp sống phạm hạnh.
    Tuy vậy, ngày nay phần lớn các chùa vì không đủ điều kiện cho số đông hàng Phật tử lưu trú qua đêm nên phương tiện rút ngắn chỉ còn một ngày. Việc giảm bớt thời lượng của khóa tu Bát quan trai là do hoàn cảnh nhà chùa, đồng thời cũng phù hợp với thực tiễn đời sống bận rộn của hàng Phật tử. Vì thế, trên tinh thần phương tiện, Quý Tăng Ni chỉ tổ chức khóa tu trong một ngày, sáng thọ giới và đến chiều xả giới. Xả giới xong là khóa tu kết thúc, các Phật tử về nhà sinh hoạt bình thường.
    Sau khi về nhà, một số Phật tử tinh tấn vẫn phát tâm giữ giới và tu niệm cho đến sáng hôm sau. Việc này hoàn toàn có tính tự giác, tự nguyện để vun bồi công đức chứ không bắt buộc. Còn đa phần thì sau khi kết thúc khóa tu về nhà sinh hoạt ăn uống bình thường, điều này không hề có bất cứ vi phạm nào đối với giới Bát quan trai cả.
    668 / Không có ý niệm vãng sanh
    Vãng sanh, trong ngữ nghĩa thông thường là sanh qua ( lên ) một thế giới khác tốt đẹp hơn. Trong giáo pháp Tịnh Độ, vãng sanh là sanh về thế giới Cực Lạc của Phật A Di Đà. Khi vãng sanh, dù chỉ ở bậc thấp nhất của Cực Lạc nhưng chắc chắn sẽ không còn thối đọa nên được vãng sanh cũng hàm nghĩa là thành tựu giải thoát.
    Tại Việt Nam, Tịnh Độ tông khá phát triển nên ý niệm vãng sanh Tây Phương Cực Lạc tương đối phổ biến khiến cho bạn “ thấy hầu như những ai tu hành đều hướng tới mục đích cuối cùng là được vãng sanh ”. Thực ra, tu tập theo Phật giáo với nhiều công hạnh và mục đích thành tựu khác nhau, từ thấp đến cao theo thứ tự Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa, Bồ Tát thừa.
    Theo như bạn cho biết thì bạn chỉ có thú hướng Nhân thừa, tức kiếp sau tiếp tục tái sanh làm người có phước báo, có duyên lành gặp Phật pháp để tu học. Muốn được như vậy thì pháp tu căn bản là quy y Tam Bảo và giữ gìn năm giới trọn vẹn song hành với việc thực thi các hạnh lành. So với những thắng duyên của một người được vãng sanh Cực Lạc thì người thú hướng Nhân thừa chắc chắn không thể sánh bằng. Tuy nhiên, đây là chí nguyện riêng của bạn nên được mọi người tôn trọng.
    Khi đọc kinh hàng ngày đến đoạn “ nguyện vãng sanh Tây Phương Cực Lạc ”, dù bạn không có ý niệm vãng sanh nhưng thiết nghĩ bạn cứ nên đọc tụng bình thường cho trọn khoa nghi để được thập phần công đức. Bạn cứ đọc mà không sợ dối lòng, vì ngay cả những đoạn kinh khác bạn tụng đọc hàng ngày rất thành tâm, vô cùng hợp ý nhưng chưa hẳn bạn đã làm được.
    Nên chúng tôi nghĩ rằng việc tụng đọc đó ( đọc mà không nguyện ) cũng tựa như bạn đang gieo vào tâm những hạt giống lành mà chẳng hề nghĩ đến hoa trái. Nhưng biết đâu một ngày nào đó hội đủ duyên lành thì những hạt giống ấy sẽ chuyển mình thức giấc rồi sẽ kết trái đơm hoa.
    ......

  • @trungnguyenvan6117
    @trungnguyenvan6117 2 หลายเดือนก่อน

    Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

  • @MaiTruong-td4ex
    @MaiTruong-td4ex 3 หลายเดือนก่อน

    NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

  • @datnguyen2075
    @datnguyen2075 3 หลายเดือนก่อน +1

    Nam mo bon su thich ca mau ni phat

  • @TinhanhnguyenBui
    @TinhanhnguyenBui 2 หลายเดือนก่อน

    Nam Mô Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo
    Nam Mô Ta Bà Giáo Chủ Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
    ( Mỗi người hãy tự mình thấp đuốc lên mà đi, hãy tự làm hòn đảo cho chính mình. Tin chắc rằng : Phật, Pháp, Tăng là thường trụ, Phật luôn ở trạng thái Niết Bàn “ tuyệt đối “; Phật giác ngộ là tự mình, do trí “ vô sư, chứ không hải trí hữu sư “; Phật quan sát và nhìn cuộc đời, sự vận hành của tất cả các Pháp mà giác ngộ vì “ tất cả các Pháp đều là Phật Pháp “, “ Như Lai là nghĩa các Pháp như như “; “ Tất cả chúng sinh dù hữu tình hay vô tình đều có Phật tánh “; “ Tất cả các Pháp đều vận hành theo lý “ Duyên sinh “, “ Nhân qủa “, “ Phước nghiệp “……; Khi chiêm ngưỡng tượng Phật, Chúng ta cố gắng thường hình dung Đức Phật đản sanh ở Ca Tỳ La Vệ, Phật thành đạo ở Bồ Đề Đạo Tràng, Phật thuyết pháp ở Ba La Nại và Phật nhập diệt ở Câu Thi Na; đó chính là 04 động tâm, tức 04 điểm kích động tâm chúng ta, tác động căn lành chúng ta khiến chúng ta phát tâm đến với Phật. Nếu chúng ta không phát được tâm Bồ đề, đương nhiên không thể đến với Phật, không thể hiểu Phật và không thấy Phật ).
    Nam Mô Thường Tịch Quang Độ Thanh Tịnh Diệu Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na Phật.
    Nam Mô Thập Đại Thị Giả, Tôn Giả, Thập Tam Đại Tỳ Kheo Ni, Một Ngàn Hai Trăm Năm Mươi Năm Vị Tôn Giả, Trưởng Lão, Đại Đức, Sáu Ngàn Vị Sa Di Ni, Hòa Thượng, Ni Trưởng, Sư, Thượng Tọa, Ni Sư, Đại Đức, Sư Cô, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Thức Xoa Ma Na, Sa Di, Sa Di Ni, Tứ Chúng, Tinh Xá, Đạo Tràng, Tăng Đoàn Của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Tăng Đoàn Của Các Đức Phật Khác Trong Ba Thời Qúa Khứ, Hiện Tại, Vị Lai.
    Nam Mô Thuyết Pháp Đệ Nhất Phú Lâu Na Ni Đa La Ni Tử ( Purnamaitrayaniputra - Punnamantaniputta ) Tôn Giả.
    Nam Mô Trì Giới Đệ Nhất Ưu Bà Ly ( Upali ) Tôn Giả.
    + Chúng con xin nguyện : “ Lấy Giới Luật Làm Thầy - Nghiêm Trì Giới Luật “
    Nam Mô Giải Không Đệ Nhất Tu Bồ Đề ( Subhuti ) Tôn Giả.
    + Chúng con cố gắng giữ cho Thân, Khẩu, Ý được thanh tịnh, tỉnh thức trong từng sát na, hơi thở.
    Nam Mô Luận Nghị ( Hùng Biện ) Đệ Nhất Đại Ca Chiên Diên ( Mahā Kaccāna, Maha Kaccayana, Katyayana ) Tôn Giả.
    Nam Mô Thần Thông Đệ Nhất Đại Mục Kiền Liên ( Mahà Moggallàna ) Tôn Giả.
    Nam Mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên ( Mahà Moggallàna ) Bồ Tát.
    ( ……Dù Cha ra sao vẫn luôn là đấng sinh thành - Dù Mẹ làm sao cũng luôn mang nặng đẻ đau ……).
    Nam Mô Tây Thiên ( Ấn Độ ), Đông Độ ( Trung Hoa ), An Nam ( Việt Nam ), Xiêm La ( Thái Lan ) Truyền Giáo Lịch Đại Tổ Sư Giác Linh.
    Nam Mô Pháp : Nhất tâm đảnh lễ : Chúng con nguyện y giáo phụng hành :
    Nam Mô Tăng.
    Nam Mô Phật. Nam Mô Pháp. Nam Mô Tăng.
    Vui thay, Phật ra đời !; Vui thay, Pháp được giảng !; Vui thay, Tăng hòa hợp !; Hòa hợp tu, vui thay !.
    Khó thay, được làm người; Khó thay, được sống còn; Khó thay, nghe diệu pháp; Khó thay, Phật ra đời !.
    Chúng con thành tâm cầu nguyện, cầu mong cho tất cả pháp giới chúng sinh dù tu theo tông ( tôn ) nào, môn nào trong đạo Phật thì luôn luôn cố gắng nương về, quay về bên Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Thánh Chúng, Tứ Chúng trong tăng đoàn của Ngài. Luôn luôn khắc nhớ, hành theo những lời dạy căn bản, xuyên suốt của Ngài : Ba mươi bảy phẩm trợ đạo; Thập nhị nhơn duyên; Lấy giới Luật làm Thầy, nghiêm trì Giới luật; Giữ vững tinh thần “ Lục Hòa “ trong đạo Phật và áp dụng vào đời sống thực tiễn của mỗi người; Đừng làm các điều ác, siêng làm các điều lành, giữ tâm ý trong sạch, là lời Chư Phật dạy; Cố gắng giữ được Thiền định trong từng sát na, hơi thở, ……
    Ba mươi bảy phẩm trợ đạo : ( đoạn 1 ) :
    + Tứ Niệm Xứ ( Bốn Món Niệm Xứ )
    + Tứ Chánh Cần ( Bốn Món Chánh Cần )
    + Tứ Như Ý Túc ( Bốn Món Như Ý Túc )
    + Ngũ Căn ( Năm Căn )
    + Ngũ Lực ( Năm Lực )
    + Thất Bồ Đề Phần ( Bảy phần Bồ Đề )
    + Bát Chánh Đạo Phần ( Tám Phần Chánh Đạo )
    TỨ DIỆU ĐẾ
    Tứ Diệu đế là : Khổ Diệu Đế ( Dukkha ariyasacca ), Tập Diệu Đế ( Samudaya ariyasacca ), Diệt Diệu Đế ( Nirodha ariyasacca ), Đạo Diệu Đế ( Magga ariyasacca ).
    Sau khi đắc đạo thành bậc Chánh đẳng Chánh giác, Đức Thế Tôn, mới Chuyển Pháp Luân, Ngài ngự đến rừng Lộc Giả
    ( Isipatanamigadayavana ), gần thành Baranasi thuyết pháp độ năm vị tỳ khưu, bọn Kiều Trần Như và 18 vạn Phạm thiên.
    1. Khổ Diệu Đế : Đức Thế Tôn tự thuyết rằng :
    Tatthakatama jatipidukkha jarapidukkha byadhi pidukkha maranampidukkha sokaparidevadukkha domanassupayasapidukkha appiyehisampayogodukkha piyehivippayogodukkho yampicchamnalabhati tampidukkha samkhittenapancupadanakkhandhapidukkha
    Nầy các vị tỳ khưu ! Những sự thống khổ mà Như Lai diễn giải đây, nó hằng phá hại chúng sanh phải chịu nhiều sự khổ não không ngừng nghỉ, đeo đuổi mà làm cho chúng sanh phải chịu điêu đứng không cùng, những sự khổ ấy như thế nào ? Nầy các vị tỳ khưu! Sự khổ có tất cả 13 điều :
    1.1. Jati dukkha: khổ vì sự sanh ;
    Như Lai gọi khổ vì sự sanh, bởi chúng sanh đều phải có sự khổ từ khi di chuyển sanh trong 4 loại: andaja: loài noãn sanh, trước sanh trong trứng, sau mới nở ra thành con vật; jalambuja: loài thai sanh, sanh vào bào thai mẹ (như loài người); samsedaja: loài thấp sanh, sanh nơi ẩm thấp (như côn trùng); upapatika: loài hóa sanh, hóa sanh nguyên hình, như Chư thiên, một phen sanh ra thì đều đủ các thể chất, như một người tuổi lên mười sáu. Cách hóa sanh, chẳng phải chỉ có Chư thiên, mà nhơn loại cũng có khi được như nàng Ambapasika, cùng người Bà-la-môn Pokkharasāti.
    Tất cả chúng sanh trong 4 loại này đều phải chịu chi phối của sự sanh, đó là duyên khởi luân hồi trong tam giới, sanh diệt, diệt sanh khắp loài, khắp cõi, không nơi cùng tột. Dầu chúng sanh, thuộc loại Thai sanh, hoặc có lục căn đầy đủ, hoặc không đầy đủ, thuộc loại Noãn sanh, Thấp sanh hay Hóa sanh chẳng hạn đều phải chịu các sự khổ sanh như nhau không sao tưởng được, nhưng loại Thai sanh thường chịu nặng nề hơn.
    ......

  • @ThuyTien-ln5dv
    @ThuyTien-ln5dv 3 หลายเดือนก่อน +1

    Nam mô a Di Đà Phật

  • @mariejohnson9867
    @mariejohnson9867 3 หลายเดือนก่อน +1

    Nam mô bổn sư thích ca mâu Ni Phật

  • @TinhanhnguyenBui
    @TinhanhnguyenBui 2 หลายเดือนก่อน

    Nam Mô Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo
    Nam Mô Ta Bà Giáo Chủ Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
    ( Mỗi người hãy tự mình thấp đuốc lên mà đi, hãy tự làm hòn đảo cho chính mình. Tin chắc rằng : Phật, Pháp, Tăng là thường trụ, Phật luôn ở trạng thái Niết Bàn “ tuyệt đối “; Phật giác ngộ là tự mình, do trí “ vô sư, chứ không hải trí hữu sư “; Phật quan sát và nhìn cuộc đời, sự vận hành của tất cả các Pháp mà giác ngộ vì “ tất cả các Pháp đều là Phật Pháp “, “ Như Lai là nghĩa các Pháp như như “; “ Tất cả chúng sinh dù hữu tình hay vô tình đều có Phật tánh “; “ Tất cả các Pháp đều vận hành theo lý “ Duyên sinh “, “ Nhân qủa “, “ Phước nghiệp “……; Khi chiêm ngưỡng tượng Phật, Chúng ta cố gắng thường hình dung Đức Phật đản sanh ở Ca Tỳ La Vệ, Phật thành đạo ở Bồ Đề Đạo Tràng, Phật thuyết pháp ở Ba La Nại và Phật nhập diệt ở Câu Thi Na; đó chính là 04 động tâm, tức 04 điểm kích động tâm chúng ta, tác động căn lành chúng ta khiến chúng ta phát tâm đến với Phật. Nếu chúng ta không phát được tâm Bồ đề, đương nhiên không thể đến với Phật, không thể hiểu Phật và không thấy Phật ).
    Nam Mô Thường Tịch Quang Độ Thanh Tịnh Diệu Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na Phật.
    Nam Mô Thập Đại Thị Giả, Tôn Giả, Thập Tam Đại Tỳ Kheo Ni, Một Ngàn Hai Trăm Năm Mươi Năm Vị Tôn Giả, Trưởng Lão, Đại Đức, Sáu Ngàn Vị Sa Di Ni, Hòa Thượng, Ni Trưởng, Sư, Thượng Tọa, Ni Sư, Đại Đức, Sư Cô, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Thức Xoa Ma Na, Sa Di, Sa Di Ni, Tứ Chúng, Tinh Xá, Đạo Tràng, Tăng Đoàn Của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Tăng Đoàn Của Các Đức Phật Khác Trong Ba Thời Qúa Khứ, Hiện Tại, Vị Lai.
    Nam Mô Pháp : Nhất tâm đảnh lễ : Chúng con nguyện y giáo phụng hành :
    Nam Mô Tăng.
    Nam Mô Phật. Nam Mô Pháp. Nam Mô Tăng.
    ……
    + Các Vị Cố Trưởng Lão, Thiền Sư, Tổ,......Trong ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai :
    + Ba Mươi Ba Vị Tổ Sư Thiền Tôn Ấn Độ - Trung Hoa và Tam Tổ Thiền Tôn Việt Nam ( Ma Ha Ca Diếp, A Nan, Thương Na Hòa Tu, U Ba Cúc Đa, Đề Đa Ca, Di Dá Ca, Bà Tu Mật, Phật Đà Nan Đề, Phục Đà Mật Đa, Hiếp Tôn Giả, Phú Na Dạ Xa, Mã Minh, Ca Tỳ Ma La, Long Thọ, Ca Na Đề Bà, La Hầu Đa La, Tăng Già Nan Đề, Già Da Xá Đa, Cưu Ma La Đa, Xà Dạ Đa, Bà Tu Bàn Đầu, Ma Noa La, Hạc Lạc Na, Sư Tử, Bà Xá Tư Đa, Bất Như Mật Đa, Bát Nhã Đa La, Bồ Đề Đạt Đa, Huệ Khả, Tăng Xán, Đạo Tín, Hoằng Nhẫn, Huệ Năng, Phật Hoàng Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang ) và Các Vị Thiền Sư Khác Của Ấn Độ - Trung Hoa - Việt Nam - Triều Tiên - Nhật Bản - Phương Tây - Hoa Kỳ : Hư Vân, Tuyên Hóa, Thánh Nghiêm, Phi Ấn Thông Dung Tông Lâm Tế, Thiên Hoàng Đạo Ngô, Mật Vân Viên Ngô, Vô Minh Huệ Kinh, Trạm Nhiên Viên Trừng, Bác Sơn Nguyên Lai, Hối Đài Nguyên Kính, Giác Lãng Đạo Thịnh, Ngọc Lâm Thông Tú, Vĩnh Giác Nguyên Hiền, Vân Thê Chu Hoằng, Hám Sơn Đức Thanh, Tuyết Đình Phúc Dụ, Trung Phong Minh Bản, Pháp Nhãn Vân Ích, Bích Nham Lục, Vô Môn Quan, Trí Nột, Đại Huệ Tông Cảo, Vĩnh Minh Diên Thọ, Hoằng Trí Chính Giác, Đại Huệ Tông Cảo, Nam Nhạc Hoài Nhượng, Thanh Nguyên Hành Tư, Nam Dương Huệ Trung, Vĩnh Gia Huyền Giác, Hà Trạch Thần Hội, Thạch Đầu, Dược Sơn Duy Nguyễn, Thiên Hoàng Đạo Ngộ, Đan Hà Thiên Nhiên, Dương Kì Phương Hội, Hoàng Long Huệ Nam, Ngọc Tuyền Thần Tú, Hạ Trạch Thần Hội, Tung Nhạc Huệ An Quốc Sư, Khuê Phong Tông Mật, Bạch Vân Cảnh Nhàn, Thái Cổ Phổ Ngu, Lãn Ông Huệ Cần, Ẩn Nguyên Long Kì, ……Thiền Sư Triều Tiên, Hàn Quốc, Nhật Bản : Tứ Minh Đường (Samyeongdang), Cảnh Hư ( Gyeongheo ); Mãn Không (Mangong), Âm Quán (Suwol), Huệ Minh (Hyewol), Hán Nham (Hanam), Hiểu Phong Học Nột, Điền Cương Vĩnh Tín, Long Thành (Yongseong), Cửu Sơn (Kusan sunim), Long Thành Thần Chung (Yongseong), Vạn Hải (Manhae), Tính Triệt (Seongcheol) Sùng Sơn Hạnh Nguyên (Seungshah), Đạo Nguyên Hi Huyền, Minh Am Vinh Tây, Tâm Địa Giác Tâm, Nam Phổ Thiệu Minh, Bạch Ấn Huệ Hạc, Mâu Tử, Khương Tăng Hội, Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Bách Trượng Hoài Hải, Vô Ngôn Thông, Tuệ Trung Thượng Sĩ, Thông Giác Thủy Nguyệt, Nhất Cú Trí Giáo, Thạch Liêm, Viên Văn Chuyết Chuyết, Minh Hành Tại Tại, Nguyên Thiều Siêu Bạch, Minh Hoằng Tử Dung, Liễu Quán Thiệt Diệu, Thích Thanh Từ, Phong Khuê Tông Mật, Thích Duy Lực, Vĩnh Giác Nguyên Hiền, ….. Ngoài ra còn các vị Thiền Sư ớ các nước Khác ở Hoa Kỳ, Phương Tây thuộc các dòng Thiền như : Tông Lâm Tế Nhật Bản, Tông Tào Động Nhật Bản, Sanbo Kyodan, Thiền Tông Trung Quốc, Thiền Tông Hàn Quốc,…
    + Mật Sư, Kim Cang Thừa : ( Đức Pháp Vương Gyalwang Dukpa, Padmasambhava ( Liên Hoa Sanh ), Atisa, Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Mahamaya, Từ Đạo Hạnh, Trì Bát, Ban Để Đa Ô Sa Thất Lợi, Vạn Hạnh, Thiền Nham, Nguyện Học, Thích Viên Thành, Thích Trí Không,......
    + Mười Ba Vị Tổ Tịnh Độ ( Liên Tông ) Đại Sư : Tổ Khai Đạo Là Ngài Đạo Xước, Huệ Viễn, Thiện Đạo, Thừa Viễn, Pháp Chiếu, Thiếu Khang, Diên Thọ, Tỉnh Thường, Châu Hoằng, Trí Húc, Hành Sách, Thật Hiền, Tế Tỉnh, Ấn Quang ), Cưu Ma La Thập, Nguyên Không ( Hơnen, Pháp Nhiên Thượng Nhân, Cát Thủy Đại Sư, Cát Thủy Thánh Nhân, Hắc Cốc Thượng Nhơn ), Pháp Nhiên ( Viên Quang Đại Sư, Đông Tiệm Đại Sư, Huệ Thành Đại Sư, Hoằng Giác Đại Sư, Từ Giáo Đại Sư ),.....
    + Luận Sư ( Na Tiên (Nāgaseṇa), Phật Âm (Buddhaghosa), Pháp Hộ (Dhammapāla), Hiếp Tôn Giả (Pārasava), Mã Minh (Aśvaghoṣa), Thế Hữu (Vasumitra), Long Thọ (Nāgārjuṇa), Thánh Thiên (Ariyadeva), Phật Hộ (Buddhapāla), Thanh Biện (Bhavaviveka), Vô Trước (Asaṅga), Thế Thân (Vasubandhu), Trần Na (Dinnāga - Dignāga), Hộ Pháp (Dharmapāla), Pháp Xứng (Dharmakirti), Tăng Triệu, Giới Hiền, …… ).
    + Các Ngài Luật Sư : Ưu Ba Ly, Đàm Ma Ca La, Nam Sơn Đại Sư ( Đạo Tuyên ), Đại Trí Thiền Sư ( Nguyên Chiếu ), Truyền Đăng Đại Pháp Sư ( Giám Chân ),.....
    + Hoa Nghiêm Tông : Bồ Tát Mã Minh, Long Thụ, Đế Tâm Tôn Giả ( Đôn Hoàng Bồ Tát, Đỗ Thuận ), Văn Hoa Trí Nghiễm, Hiền Thủ Pháp Tạng, Thanh Lương Trừng Quán ( Thanh Lương Tông ), Khuê Phong Tông Mật, Tử Tuyền, Tứ Đại Gia Đời Tống ( Đạo Đinh, Quan Phục, Sư Hội, Hy Địch ), Phổ Thuy, Viên Giác, Bổn Hao, Bàn Cốc, Văn Tài, Đạt Ích Ba, Đức Thanh, Cổ Đinh, Lý Trác Ngộ, Đạo Thông, Như Phi, Tổ Trụ, Chu Khắc Phục, Tục Pháp, Đạo Tuyền, Thẩm Tường, Lương Biện, Thật Trung, Đẳng Định, Chánh Tấn, Quang Trí,……)
    + Tam Luận Tông : Bồ Tát Long Thụ, Ka Na Bà Đề, Cưu Ma La Thập, La Hầu La Đa Là Tân Già La ( Piṅgalanetra, Thanh Mục ); Tu Lợi Da Bạt Đà, Tu Lợi Da Tô Ma, Cát Tạng, Pháp Lãng, Gia Tường Đại Sư, Huệ Quán, Khuyến Lặc,……
    + Thiên Thai Tông ( Pháp Hoa Tông ) : Trí Khải Đại Sư, Trí Giả Đại Sư, Truyền Giáo Đại Sư ( Tối Trừng, Dengyo Daishi, Saichơ ),……
    + Chân Ngôn Tông : Đại Sư Thiện Vô Úy, Kim Cang Trí ( Vajrabodhi ), Bất Không ( Amoghavajra ), Hoằng Pháp Đại Sư ( Kobo Daishi, Không Hải ), Hàm Quang, Huệ Lãng, Huệ Qủa, Nghĩa Minh, Nghĩa Viên, Huệ Nhật, Huệ Ứng, Nghĩa Thảo,……
    + Câu Xá Tông : Bồ Tát Thế Thân, Huyền Trang, Tchitsu, Tchitasu,……
    + Thành Thật Tông : Ha Lê Bạt Ma, Cưu Ma La Thập ( Kumrajyva, Đồng Thọ ), Huệ Quán, Khuyến Lặc,……
    + Pháp Tướng Tông : Bồ Tát Thế Thân, Huyền Trang, Đạo Chiêu ( Dơshơ ), Huyền Phảng ( Genbơ ), Huệ Chiểu,......
    + Sư, Tổ, Qúy Hòa Thượng, Thiền Sư, Thượng Tọa, Đại Đức, Tôn Đức, Tăng Ni, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Sa Di, Sa Di Ni ( Khánh Hòa, Khánh Anh, Bách Trượng, Tăng Trượng, Nguyễn Minh Không, Từ Đạo Hạnh, Giác Hải, Vạn Hạnh, Minh Đăng Quang, ......) Trong Ba Thời Qúa Khứ, Hiện Tại Và Vị Lai.
    + Các Ngài Tam Tạng Pháp Sư, Cưu Ma La Thập, Huyền Trang, Pháp Sư Pháp Đăng, Đại Sư Thật Xoa Nan Đà, Bồ Đề Lưu Chi, Nam Sơn Đại Sư ( Đạo Tuyên ), ......Trong Ba Thời Qúa Khứ, Hiện Tại và Vị Lai.

  • @TinhanhnguyenBui
    @TinhanhnguyenBui 2 หลายเดือนก่อน

    Nam Mô Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo
    Nam Mô Ta Bà Giáo Chủ Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
    ( Mỗi người hãy tự mình thấp đuốc lên mà đi, hãy tự làm hòn đảo cho chính mình. Tin chắc rằng : Phật, Pháp, Tăng là thường trụ, Phật luôn ở trạng thái Niết Bàn “ tuyệt đối “; Phật giác ngộ là tự mình, do trí “ vô sư, chứ không hải trí hữu sư “; Phật quan sát và nhìn cuộc đời, sự vận hành của tất cả các Pháp mà giác ngộ vì “ tất cả các Pháp đều là Phật Pháp “, “ Như Lai là nghĩa các Pháp như như “; “ Tất cả chúng sinh dù hữu tình hay vô tình đều có Phật tánh “; “ Tất cả các Pháp đều vận hành theo lý “ Duyên sinh “, “ Nhân qủa “, “ Phước nghiệp “……; Khi chiêm ngưỡng tượng Phật, Chúng ta cố gắng thường hình dung Đức Phật đản sanh ở Ca Tỳ La Vệ, Phật thành đạo ở Bồ Đề Đạo Tràng, Phật thuyết pháp ở Ba La Nại và Phật nhập diệt ở Câu Thi Na; đó chính là 04 động tâm, tức 04 điểm kích động tâm chúng ta, tác động căn lành chúng ta khiến chúng ta phát tâm đến với Phật. Nếu chúng ta không phát được tâm Bồ đề, đương nhiên không thể đến với Phật, không thể hiểu Phật và không thấy Phật ).
    Nam Mô Thường Tịch Quang Độ Thanh Tịnh Diệu Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na Phật.
    Nam Mô Thập Đại Thị Giả, Tôn Giả, Thập Tam Đại Tỳ Kheo Ni, Một Ngàn Hai Trăm Năm Mươi Năm Vị Tôn Giả, Trưởng Lão, Đại Đức, Sáu Ngàn Vị Sa Di Ni, Hòa Thượng, Ni Trưởng, Sư, Thượng Tọa, Ni Sư, Đại Đức, Sư Cô, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Thức Xoa Ma Na, Sa Di, Sa Di Ni, Tứ Chúng, Tinh Xá, Đạo Tràng, Tăng Đoàn Của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Tăng Đoàn Của Các Đức Phật Khác Trong Ba Thời Qúa Khứ, Hiện Tại, Vị Lai.
    Nam Mô Thuyết Pháp Đệ Nhất Phú Lâu Na Ni Đa La Ni Tử ( Purnamaitrayaniputra - Punnamantaniputta ) Tôn Giả.
    Nam Mô Trì Giới Đệ Nhất Ưu Bà Ly ( Upali ) Tôn Giả.
    + Chúng con xin nguyện : “ Lấy Giới Luật Làm Thầy - Nghiêm Trì Giới Luật “
    Nam Mô Giải Không Đệ Nhất Tu Bồ Đề ( Subhuti ) Tôn Giả.
    + Chúng con cố gắng giữ cho Thân, Khẩu, Ý được thanh tịnh, tỉnh thức trong từng sát na, hơi thở.
    Nam Mô Luận Nghị ( Hùng Biện ) Đệ Nhất Đại Ca Chiên Diên ( Mahā Kaccāna, Maha Kaccayana, Katyayana ) Tôn Giả.
    Nam Mô Phúc Lành Đầu Tiên ( s, p : Piṇḍola - Bharadvāja, 賓頭盧頗羅墮 ), Phúc Điền Đệ Nhất ) Tân Đầu Lô Phả La Đọa Xà ( Tân Đầu Lô Phả La Đọa Thệ ( 賓頭盧頗羅墮誓 ), Phả La Đọa ( s : Bharadvāja, 頗羅墮 ), Tân Đầu Lô ( 賓頭盧 ) hay Tân Đầu ( 賓頭 ); Trường Mi Tăng ( 長眉僧 ) hay Trường Mi Sa Môn ( 長眉沙門 ) ).
    Nam Mô Thần Thông Đệ Nhất Đại Mục Kiền Liên ( Mahà Moggallàna ) Tôn Giả.
    Nam Mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên ( Mahà Moggallàna ) Bồ Tát.
    ( ……Dù Cha ra sao vẫn luôn là đấng sinh thành - Dù Mẹ làm sao cũng luôn mang nặng đẻ đau ……).
    Nam Mô Pháp : Nhất tâm đảnh lễ : Chúng con nguyện y giáo phụng hành :
    Nam Mô Tăng.
    Nam Mô Phật. Nam Mô Pháp. Nam Mô Tăng.
    ……
    “ Hương các loại hoa thơm, Không ngược bay chiều gió, Nhưng hương người đức hạnh, Ngược gió khắp tung bay. Chỉ có bậc chân nhân, Tỏa khắp mọi phương trời. “
    “ Hoa chiên đàn, già la; Hoa sen, hoa vũ quý; Giữa những hương hoa ấy; Giới hương là vô thượng “
    “ Ít giá trị hương này; Hương già la, chiên đàn; Chỉ hương người đức hạnh; Tối thượng tỏa Thiên giới.”
    ……
    + Thập Đại Thị Giả, Tôn Giả ( Xá Lợi Phất - Sāriputra - Trí Huệ Đệ Nhất; Ma Ha Ca Diếp - Mahākāśyapa - Đầu Đà ( Khổ Hạnh ) Đệ Nhất; Mục Kiền Liên - Mahāmaudgalyāyana - Thần Thông Đệ Nhất; Phú Lâu Na - Pūrṇa - Thuyết Pháp Đệ Nhất; Tu Bồ Đề - Subhūti - Giải Không Đệ Nhất; La Hầu La - Rāhula - Mật Hạnh Đệ Nhất; A Nan Đà - Ānanda - Đa Văn Đệ Nhất; Ưu Bà Li - Upāli - Giới Luật Đệ Nhất; A Na Luật - Aniruddha - Thiên Nhãn Đệ Nhất; Ca Chiên Diên - Katyāyana - Luận Nghĩa Đệ Nhất ); Một Ngàn Hai Trăm Năm Mươi Năm Vị Tôn Giả, Đại Đức, Tỷ Kheo, Tỷ Kheo Ni, Sa Di, Sa Di Ni.
    + Chúng Tỷ Kheo Ni : Thập Tam Đại Tỳ Kheo Ni ( Màhàpàjapati Gotamì - Tối Thắng Đệ Nhất; Khemà - Đại trí tuệ, tối thằng; Uppalavannà - Đầy đủ thần thông, tối thắng; Patàcàrà - Trì Luật, tối thắng; Dhammadinnà - Thuyết Pháp, tối thắng; Nandà - Tu Thiền, tối thắng; Sonà - Tinh cần tinh tấn, tối thắng; Sakulà - Thiên nhãn, tối thắng; Bhaddà Kundalakesà - Có thắng trí mau lẹ, tối thắng; Bhaddà Kapilànì - Nhớ đến các thời quá khứ, tối thắng; Bhaddà Kaccana - Đã chứng đạt đại thắng trí, tối thắng; Kisàgotami - Mang thô y, tối thắng; Sigalàmàtà - Đầy đủ tin thắng giải, tối thắng ) và Các Vị ( Cố ) Ni Sư Trưởng, Ni Sư, Sư Cô.
    + Nhị Thập Chúng Tỷ Kheo ( 20 vị ) : Ba Ca Ly: Tín tâm đệ nhất - Bà Kỳ Sa: Thí tài đệ nhất - Bạc Câu La: Không bệnh đệ nhất - Ca Ly Hào Đà Tử Bạt Đề: Tánh quý đệ nhất - Ca Lưu Đà Di: Giao tế đệ nhất - Câu Hy La: Bác giải đệ nhất - Chu Ly Bàn Đà Già: Giải thoát đệ nhất - Câu Sát Đà Na: Hạnh vận đệ nhất - Kiếp Tân Na: Giáo hội Tỳ kheo đệ nhất - Kiều Trần Như: Pháp lạp đệ nhất - La Cưu Sất Ca Bạt Đề: Mỹ ngôn đệ nhất - Ly Bà Đa: Thiền định đệ nhất - Ma Ha Bàn Đề: Vô trưởng đệ nhất - Nan Đà Ca: Giáo hội ni chúng đệ nhất - Tần Đầu Lô: Sư hống đệ nhất - Tô Na Khảo Lỵ Tỳ Sa: Tinh tấn đệ nhất - Tư Bá Ly: Sở đắc đệ nhất - Ưu Lâu Tần La Ca Diếp: Lãnh chúng đệ nhất - Ưu Bà Ly: Ký ức đệ nhất - Văn Nhị Bách Ức: Mỹ âm đệ nhất.
    + Lục Chúng Ưu Bà Tắc ( 6 vị ) : Chất Đa: Thuyết pháp đệ nhất - Kỳ Bà: Y bộ đệ nhất - Nan Cưu La: Tín thất đệ nhất - Tu Đạt: Bố thí đệ nhất - Tu La Am Bà Đa: Bất hại tín tâm đệ nhất - Úc Ca: Cúng dường đệ nhất.
    + Ngũ Chúng Ưu Bà Di ( 5 vị ) : Ca Đế Nhỉ: Tín ngưỡng kiên cố đệ nhất - Ca Ly: Truyền Tam bảo đệ nhất - Tu Bỉ Đa: Khán bệnh đệ nhất - Tỳ Xá Khư: Bố thí đệ nhất - Uất Đa La: Đa văn đệ nhất.
    + Bát Đệ Tử Đặc Thù Của Đức Phật ( 8 vị ) : Chu Ly Bàn Đà Già ( Suddhi panthaka, Cung Thác Bán Ca ) - Kiều Trần Như - Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp ( Urivilia Kasyapa ) - Văn Nhị Bách Ức ( Nhị Thông Ức Nhĩ ) - Ma Ha Ba Xà Ba Đề - Liên Hoa Sắc - Cư Sĩ Tu Đạt ( Cấp Cô Độc ) - Ưu Bà Di Tỳ Xá Khư. ( Vasàkhà, Lộc Mẫu, Vợ Của Trưởng Giả Tu Đạt ).
    ......