Lòng thành đệ tử xin cầu Nhờ ơn đức Phật cứu ân tai nàn Vì trong bá tánh chẳng an Nương kinh công đức lập đàn Dược Sư Nguyên do biển khổ bây chầy Thảm thương dân chúng quá ư đau lòng Chẳng nài có của cùng không Ngày đêm lạy Phật ra công khẩn cầu Cầu cho khắp cả đâu đâu...... Nhân nhân xứ xứ bớt sầu bớt lo Nhà nhà ăn mặt ấm no Hưởng phần vui vẻ đồng lo tu hành Biết đời diệt diệt sanh sanh Có không không có như cành đổi thay Khác nào như gió như mây Như sương như điện hiện nay rõ ràng Đó là lẽ sự thế gian Mau mau tránh khỏi tìm đàng dời chân Nguyện cho chánh pháp vô dư Hoàn toàn dứt khổ đồng như Phật đà Phân thân qua cõi Ta Bà Từ bi tiếp độ những là chúng sanh Nguyện cho bá tánh tu hành Đồng về Cực Lạc đồng sanh sen vàng Lênh đênh qua cõi Diêm Phù Khéo tu thì nỗi vụng tu thì chìm. Nam Mô Đông Phương Giáo Chủ Tiêu Tai Diên Thọ Tịnh Lưu Ly Thế Giới Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật. Nam Mô Ta Bà Giáo Chủ Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Làm xong được chút phước lành Con xin hồi hướng chúng sanh hưởng nhờ. Mênh mông biển khổ không bờ Trần gian chìm đắm mịt mờ tối đen, Bỗng đâu núi báu hiện lên Tháp vàng rực rỡ vượt trên cao vời, Cơ duyên Chánh pháp ra đời Lối tu tối thượng độ người trầm mê, Tinh thần nẻo thẳng cao xuê Mà đường vật chất thấp nê bùn lầy, Càng buông bỏ dưới chân này Ấy là chỗ đứng càng ngày càng cao, Nhiều người chung sức với nhau Công phu tứ chúng góp vào điểm tô Đạo vàng cao quý bày phô Cũng vì lợi ích chung cho thế trần, Hôm nay con mới góp phần Nguyện xin tất cả xa gần hưởng chung, Mỗi người học đạo tỏ thông Chư Tăng Khất sĩ ra công thuyết bài, Cầu xin Giáo pháp hoằng khai Được thường tỏ sáng lại hay thơm lành, Nguyện cho đạo đức thạnh hành Cảnh đời Đông Độ đổi thành Tây Phương… Nam Mô Ta Bà Giáo Chủ Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Nguyện ngày an lành, đêm an lành, Đêm ngày sáu thời đều an lành, Tất cả các thời đều an lành, Xin đấng Từ Bi thường gia hộ. Nguyện ngày an lành, đêm an lành, Đêm ngày sáu thời đều an lành, Tất cả các thời đều an lành, Xin nguyện Tam Bảo thường gia hộ Nguyện ngày an lành, đêm an lành, Đêm ngày sáu thời đều an lành, Tất cả các thời đều an lành, Xin nguyện Hộ Pháp thường gia hộ. Nam Mô Tiêu Tai Giáng Kiết Tường Bồ Tát Ma Ha Tát.
Tội từ tâm khởi, đem tâm sám, Tâm được tịnh rồi, tội liền tiêu; Tội tiêu, tâm tịnh thảy đều không, Thế mới thật là chân sám hối. ( Tội do tâm sanh, do tâm diệt. Tâm đã diệt, tội cũng không còn. Tội hết tâm không hai vắng lặng. Như thế mới là chân sám hối.) Nam Mô Ta Bà Giáo Chủ Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật Từ xưa con đã tạo nghiệp xấu. Vì tham, sân, si từ vô thỉ. Do thân, miệng, ý mà phát sinh. Nay con đều sám hối tất cả. Nam Mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát. ".....Nầy Tu - Bồ - Đề !, vì thế các vị đại Bồ Tát, phải nên sanh tâm thanh tịnh như vầy : chẳng nên trụ trước nơi sắc mà sanh tâm, chẳng nên trụ trước nơi thanh, hương, vị, xúc và pháp, mà sanh tâm, nên " không - chổ - trụ - trước " mà sanh tâm thanh tịnh kia......" ( Therefore, Subhuti, all Bodhisattvas, lesser and great, should develop a pure, lucid mind, not depending upon sound, flavor, touch, odor, or any quality. A Bodhisattva should develop a mind which alights upon no thing whatsoever; and so should he establish it. ) “……Cũng bởi nghĩa đó, Như Lai thường dạy rằng: “Nầy, các Tỳ kheo, các ông phải biết rằng, pháp của Ta nói ra đó, dụ cũng như thuyền bè, đến pháp còn phải xả bỏ, huống nữa là phi pháp !” ( This is the reason why the Tathagata always teaches this saying: My teaching of the Good Law is to be likened unto a raft. [ Does a man who has safely crossed a flood upon a raft continue his journey carrying that raft upon his head?] The Buddha teaching must be relinquished; how much more so mis teaching ! ) “……Bởi vì sao? Vì rời lìa tất cả tướng, chính đó gọi là chư Phật”. ( Why ? Consequently those who have left behind every phenomenal distinction are called Buddhas all. ) “……Nầy Tu Bồ Đề! Tâm quá khứ không có chi mà được, tâm hiện tại không có chi mà được, tâm vị lai không có chi mà được.“ ( Subhuti, it is impossible to retain past mind, impossible to hold on to present mind, and impossible to grasp future mind. ) “……Bởi vì sao? Vì Như Lai đó, không từ nơi nào lại, mà cũng không đi về đâu, nên gọi là Như Lai......” ( Why? Because Tathagata has neither whence nor whither, therefore is He called "Tathagata". ) “…..Nhược dĩ sắc kiến ngã, Dĩ âm thanh cầu ngã, Thị nhân hành tà đạo, Bất năng kiến Như Lai…..” ( Nếu do sắc thấy ta, Do âm thanh cầu ta, Người ấy hành đạo tà, Không thể thấy Như Lai.) ( Who sees Me by form, Who seeks Me in sound, Perverted are his footsteps upon the Way, For he cannot perceive the Tathagata. ) “…..Tất cả những pháp hữu vi. Khác nào mộng, huyễn, khác gì điện, sương. Như bóng nước, như ảnh tượng. Xét suy như thế cho thường chớ quên!.....” ( Thus shall ye think of all this fleeting world. A star at dawn, a bubble in a stream. A flash of lightning in a summer cloud. A flickering lamp, a phantom, and a dream. ) Hận thù diệt hận thù, đời này không có được. Từ bi diệt hận thù, là định luật thiên thu. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Cư trần lạc đạo thả tùy duyên ( 居 塵 樂 道 且 隨 緣 ) Cơ tắc xan hề khốn tắc miên ( 饑 則 飧 兮 困則 眠 ) Gia trung hữu bảo hưu tầm mích ( 家 中 有 宝 休寻 覓 ) Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền. ( 对 鏡 無 心 莫問 禪 ) ( Ở đời vui đạo hãy tùy duyên Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền Trong nhà có báu thôi tìm kiếm Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền ) Bồ đề bổn vô thọ ( 菩 提 本 無 樹 ) ( There is no Bodhi tree ) Minh kính diệc phi đài ( 明 鏡 亦 非 臺 ) ( Nor stand of a mirror bright ) Bổn lai vô nhất vật ( 本 來 無 一 物 ) ( Since all is Void ) Hạ xứ nhạ trần ai ?. ( 何 處 惹 塵 埃 ) ( Where can the dust alight ? ) Thân như cây bồ đề ( 身 是 菩 提 樹 ) ( Our body is the Bodhi tree ) Tâm như đài gương sáng ( 心 如 明 鏡 臺 ) ( And our mind a mirror bright ) Thường ngày phải lau chùi ( 時 時 勤 拂 拭 ) ( Carefully we wipe them hour by hour ) Chớ dính các bụi nhơ ( 勿 使 惹 塵 埃 ) ( And let no dust alight ) ....... Trần lao quýnh thoát sự phi thường, ( 塵勞迥脫事非常, ) Khẩn bã thằng đầu tố nhất trường, ( 緊把繩頭做一場; ) Bất thị nhất phiên hàn triệt cốt, ( 不是一番寒徹骨, ) Tranh đắc mai hoa phốc tỷ hương ? ( 爭得梅花撲鼻香? ) Việt dịch : Vượt khỏi trần lao việc chẳng thường, Nắm chặt đầu dây giữ lập trường, Chẳng phải một phen xương lạnh buốt, Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương ?. ( Bài kệ Hoa Mơ đâu dễ ngát mùi hương - Tổ Hoàng Bá Hy Vận - Tỳ Kheo Thích Thiện Trí ). ……. Xuân khứ bách hoa lạc, ( 春去百花落 ) Xuân đáo bách hoa khai. ( 春到百花開 ) Sự trục nhãn tiền quá, ( 事逐眼前過 ) Lão tùng đầu thượng lai. ( 老從頭上來 ) Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận, ( 莫謂春殘花落盡 ) Đình tiền tạc dạ nhất chi mai. ( 庭前昨夜一枝梅 ) Việt Dịch Nghĩa : Xuân đi, trăm hoa rụng, Xuân đến, trăm hoa nở. Việc đời theo nhau ruổi qua trước mắt, Tuổi già hiện đến từ trên mái đầu. Đừng cho rằng xuân tàn thì hoa rụng hết, Đêm qua, một cành mai đã nở trước sân. ( Bài kệ : Cáo Tật Thị Chúng - 告疾示眾 - Thiền Sư Mãn Giác - Lâm Trung Phú dịch ) : …… Đã mang lấy nghiệp vào thân Thì đừng trách lẫn trời gần trời xa Thiện căn ở tại lòng ta Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài ............. Có trời mà cũng có ta. Tu là cội phúc, tình là dây oan. …… Thế sự đua nhau nói khổ vui Có chi là khổ có chi vui Vui trong tham dục vui rồi khổ Khổ để tu hành khổ hóa vui. Nếu biết có vui rồi có khổ Thà rằng đừng khổ cũng đừng vui Mong sao giữ mãi đừng vui khổ Mới thoát ra ngoài cái khổ vui. …… Kinh không chữ mới thật là chân kinh. …… Trường Giang cuồn cuộn chảy về đông Bạc đầu ngọn sóng cuốn anh hùng Thị phi thành bại theo dòng nước Sừng sững cơ đồ bỗng tay không. …… Đốt nén tâm hương trước Phật đài, Ngũ phần dâng trọn Đức Như Lai, Cầu xin nhân loại lên bờ giác, Hạnh phúc bình an khắp muôn loài. Đốt nén tâm hương cúng Phật đà, Lòng thành gửi tận chốn bao la. Cầu xin Tam Bảo thường gia hộ, Đạo pháp hoằng thông khắp mọi nhà. Đốt nến tâm hương ở Ta Bà, Nhớ lời di huấn Đức Thích Ca. Cầu xin Bồ Tát Tùng Địa Xuất, Thầm giúp cho người tụng Pháp Hoa. Tâm Thế Tôn mảy trần không bợn, Thân của Ngài vô tận phước lành. Từ bi, cứu khổ, độ sanh, Chúng con đảnh lễ, chí thành quy y. Nam Mô Ta Bà Giáo Chủ Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Hơn sáu muôn lời thành bảy cuốn Chứa đựng vô biên nghĩa nhiệm mầu Trong cổ nước cam lộ rịn nhuần Trong miệng nước đề hồ nhỏ mát Bên răng ngọc trắng tuôn xá lợi Trên lưỡi sen hồng phóng hào quang Dầu cho tạo tội hơn núi cả Chẳng nhọc Diệu Pháp vài ba hàng. ( Lục vạn dư ngôn thất trục trang. Vô biên diệu nghĩa quảng hàm tàng. Hầu trung cam lộ quyên quyên nhuận. Khẩu nội đề hồ trích trích lương. Bạch ngọc xỉ biên lưu xá lợi Hồng liên thiệt thượng phóng hào quang Giả nhiêu tạo tội quá sơn nhạc Bất tu Diệu Pháp lưỡng tam hàng. ) Nam Mô Pháp Hoa Hội Thượng Phật Bồ Tát Ma Ha Tát.
Phật Pháp và Cuộc Sống : Tất cả các Pháp đều là Phật Pháp : ( đoạn 116 ) : 336 / Hiểu đúng về “ xả bỏ ham muốn ” Theo Phật giáo, ham muốn (tham lam, tham ái, tham dục, dục vọng) là phiền não căn bản tồn tại trong tất cả mọi người. Tham ái và vô minh chính là cội nguồn của mọi tranh chấp, khổ đau. Vì lòng tham vốn vô hạn, dục vọng không có điểm dừng nên Phật giáo dạy người phát huy tỉnh thức để chuyển hóa, giảm thiểu và buông xả bớt ham muốn nhằm thiết lập bình an, lợi mình và ích người. Xả ly toàn bộ ham muốn vị kỷ chính là bậc Thánh A-la-hán, hoàn toàn giải thoát sinh tử, khổ đau. Vì bản chất của con người là tham-ái-dục nên xả bỏ ham muốn hoàn toàn (ly tham, đoạn tham) là ước vọng, là cứu cánh, còn sống trong đời thường giảm thiểu ham muốn đã là quý hóa lắm rồi. Nói cụ thể, mục tiêu của người Phật tử là buông xả bớt ham muốn, không bo bo vị kỷ, sống san sẻ vị tha để mình và người đều lợi ích, an vui. Nên phải xác định ly tham là mục tiêu sau cùng, bớt tham là mục tiêu hiện tại. Ham muốn thì vô cùng, phân loại thì có tham ngũ dục (tiền bạc, sắc đẹp, danh tiếng, ăn uống, ngủ nghỉ), đắm lục trần (đối tượng của sáu giác quan: sắc- cảnh đẹp, thanh- tiếng hay, hương- mùi thơm, vị- ngon ngọt, xúc- êm ái, pháp- những đối tượng của tâm ý). Dĩ nhiên khó có thể đạt được những tham muốn này, thường thì được cái này lại mất cái kia, dù sao thỏa mãn các tham muốn vẫn là hạnh phúc của thế thường. Thực tiễn đời sống phải có ngũ dục (không có là nguy), phải có đời sống dễ chịu (lục trần, ngoại cảnh không chướng nghịch) nhưng quá tham đắm lại là điều không tốt, nhiều mong cầu sẽ phiền não khổ đau. Thế nên, người Phật tử cũng có mong muốn chính đáng như sức khỏe, bình an, hạnh phúc; mong muốn đầy đủ phước báo để lợi mình và lợi người. Thực tập buông bớt tham đắm, người Phật tử lập hạnh muốn ít và biết đủ (thiểu dục và tri túc). Muốn ít là vì biết nghĩ đến người, mong muốn được sẻ chia với người nên không gom hết cho mình. Biết đủ là không quá tham cầu, chấp nhận thực tiễn, vui với những gì mình đang có (vì muốn nhiều hơn chưa hẳn đã được mà càng nặng nề, bận tâm thêm). Cần phải thấy rõ, các duyên bên ngoài (có vật chất, ngũ dục) chỉ là những điều kiện cần, bình an trong tâm mới là điều kiện đủ cho hạnh phúc, cho chất lượng cuộc sống. Chạy theo ngũ dục mà đánh mất bình an bản thân và gia đình là một sự trả giá quá đắt, một sự thiếu trí tuệ. Cho nên, người Phật tử lập hạnh muốn ít và biết đủ không phải là sự thụ động, kìm hãm sự phát triển kinh tế của bản thân và xã hội mà đó chính là thiết lập sự thăng bằng giữa phát triển vật chất và tinh thần, hài hòa giữa sự thành đạt và bình an. 337 / Muốn tự học Phật nên bắt đầu từ đâu? Đạo Phật trên thế giới hiện có hai truyền thống lớn, đó là Phật giáo Nam tông (Nguyên thủy) và Phật giáo Bắc tông (Phát triển). Trong mỗi truyền thống lại có nhiều tông phái khác nhau. Về căn bản lịch sử và giáo lý, các truyền thống và tông phái Phật giáo đều giống nhau, song bên cạnh đó cũng có một số khác biệt. Đặc điểm của Phật giáo Việt Nam là dung hội cả hai truyền thống Phật giáo lớn của thế giới với nhiều tông phái, hệ phái khác nhau. Trước thực tiễn kinh sách Phật học và văn hóa Phật giáo vô cùng phong phú, đa dạng như hiện nay, người tự tìm hiểu Phật pháp sẽ lúng túng và mất thời gian nếu không được định hướng đúng đắn. Để tự tìm hiểu, nghiên cứu Phật pháp, thiển nghĩ trước nên tiếp cận từ lịch sử, giáo lý, sau mới đến văn hóa và các phương diện khác của Phật giáo. Về lịch sử Phật giáo, bạn có thể bắt đầu với sách Đức Phật lịch sử của Schumenn ( Trần Phương Lan dịch ), sách Đức Phật Gotama của Hajime Nakamura ( Trần Phương Lan dịch ). Đây là hai biên khảo tiêu biểu về lịch sử Đức Phật dựa vào văn bản học và khảo cổ học có uy tín trên thế giới. Bạn có thể tìm hiểu cuộc đời Đức Phật một cách thi vị hơn qua sách Đường xưa mây trắng của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Ngoài ra, bạn nên tìm hiểu thêm về Phật giáo Việt Nam qua sách Lịch sử Phật giáo Việt Nam của Lê Mạnh Thát và sách Việt Nam Phật giáo sử luận của Nguyễn Lang ( bút hiệu của Thiền sư Thích Nhất Hạnh ). Về giáo lý căn bản, thiển nghĩ bạn nên đọc sách Đức Phật và Phật pháp của Trưởng lão Narada ( Phạm Kim Khánh dịch ), sách Trái tim của Bụt của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, sách Phật học phổ thông của Hòa thượng Thích Thiện Hoa, sách Phật học cơ bản ( Giáo trình do Ban Hoằng pháp Trung ương soạn ). Đặc biệt, nếu hội đủ duyên lành bạn nên đọc thẳng vào kinh tạng, Kinh tạng Nikaya ( gồm kinh Trường bộ, kinh Trung bộ, kinh Tương ưng bộ, kinh Tăng chi bộ, kinh Tiểu bộ ) và Kinh tạng A Hàm ( gồm kinh Trường A Hàm, kinh Trung A Hàm, kinh Tăng nhất A Hàm, kinh Tạp A Hàm ). Tất cả giáo lý căn bản, bao gồm cả pháp học lẫn pháp hành đều nằm trọn trong hai bộ kinh này. Về sau, tùy nhân duyên bạn có thể tìm hiểu thêm Luận tạng, kinh Đại thừa, các Sớ chú giải… Sách chuyên khảo về văn hóa Phật giáo từ Ấn Độ, Trung Quốc, Việt Nam… hiện có rất nhiều, bạn cứ tùy duyên tham khảo. Về thông tin, bạn có thể đọc và xem tin tức Phật giáo trên Giác Ngộ online ( giacngo.vn ) - Cơ quan ngôn luận của GHPGVN TP.HCM, phatgiao.org.vn - Cổng thông tin điện tử của Ban Thông tin - Truyền thông Trung ương; Phật sự online ( phatsuonline.com ) - Cổng thông tin Văn phòng Trung ương GHPGVN. Ngoài ra, thuvienhoasen.org ( do cư sĩ Tâm Diệu chủ trương ở nước ngoài ) cũng đăng tải khá nhiều kinh sách, các bài khảo luận, nghiên cứu Phật học với nhiều thể loại. Còn nhiều trang mạng Phật giáo khác nữa chuyên sâu về giáo lý và pháp hành của riêng từng tông phái, hệ phái, pháp môn. Sau khi học xong phần căn bản Phật pháp, bạn có thể tự tìm hiểu, nghiên cứu và học hỏi thêm ở các trang này. Những kinh sách hay trang mạng mà chúng tôi giới thiệu chỉ là gợi ý ban đầu, có tính tổng quan. Quan trọng nhất, bạn cần kết duyên với một số Vị Tăng ( Ni ) để được trực tiếp trợ duyên, hướng dẫn chi tiết trong quá trình tự học Phật. 338 / Bị tâm thần nhẹ có nên tiếp tục tu hành ? Đúng như bạn nói, theo quy định của Đức Phật, “người tâm lý có phần bất thường thì không được thọ giới”. Trong hoàn cảnh của bạn, nếu được bổn sư đồng ý, gia đình và Phật tử hỗ trợ kinh phí, thì bạn hãy ở chùa, tiếp tục điều trị bệnh cho đến khi lành hẳn mới xin phép thọ giới. Bệnh tật thì ai cũng có, nhưng bệnh tâm thần khi phát khởi có thể khiến bệnh nhân mất kiểm soát lời nói và hành vi. Những biểu hiện của căn bệnh này song hành với chiếc áo tu hành thì dễ dàng khiến cho người khác hiểu và đánh giá sai lệch về nhà chùa, chư Tăng nói chung, sẽ khiến bạn tổn phước và đạo pháp bị tổn thương nghiêm trọng. Do vậy, nếu không đủ duyên như đã nói thì bạn nên xin phép bổn sư trở về gia đình, làm người cư sĩ, tiếp tục trị bệnh. Khi nào hết bệnh thì bạn trở lại chùa xin được xuất gia. ......
Nam Mô Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo Nam Mô Ta Bà Giáo Chủ Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật ( Mỗi người hãy tự mình thấp đuốc lên mà đi, hãy tự làm hòn đảo cho chính mình. Tin chắc rằng : Phật, Pháp, Tăng là thường trụ, Phật luôn ở trạng thái Niết Bàn “ tuyệt đối “; Phật giác ngộ là tự mình, do trí “ vô sư, chứ không hải trí hữu sư “; Phật quan sát và nhìn cuộc đời, sự vận hành của tất cả các Pháp mà giác ngộ vì “ tất cả các Pháp đều là Phật Pháp “, “ Như Lai là nghĩa các Pháp như như “; “ Tất cả chúng sinh dù hữu tình hay vô tình đều có Phật tánh “; “ Tất cả các Pháp đều vận hành theo lý “ Duyên sinh “, “ Nhân qủa “, “ Phước nghiệp “……; Khi chiêm ngưỡng tượng Phật, Chúng ta cố gắng thường hình dung Đức Phật đản sanh ở Ca Tỳ La Vệ, Phật thành đạo ở Bồ Đề Đạo Tràng, Phật thuyết pháp ở Ba La Nại và Phật nhập diệt ở Câu Thi Na; đó chính là 04 động tâm, tức 04 điểm kích động tâm chúng ta, tác động căn lành chúng ta khiến chúng ta phát tâm đến với Phật. Nếu chúng ta không phát được tâm Bồ đề, đương nhiên không thể đến với Phật, không thể hiểu Phật và không thấy Phật ). Nam Mô Thường Tịch Quang Độ Thanh Tịnh Diệu Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na Phật. Nam Mô Thập Đại Thị Giả, Tôn Giả, Thập Tam Đại Tỳ Kheo Ni, Một Ngàn Hai Trăm Năm Mươi Năm Vị Tôn Giả, Trưởng Lão, Đại Đức, Sáu Ngàn Vị Sa Di Ni, Hòa Thượng, Ni Trưởng, Sư, Thượng Tọa, Ni Sư, Đại Đức, Sư Cô, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Thức Xoa Ma Na, Sa Di, Sa Di Ni, Tứ Chúng, Tinh Xá, Đạo Tràng, Tăng Đoàn Của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Tăng Đoàn Của Các Đức Phật Khác Trong Ba Thời Qúa Khứ, Hiện Tại, Vị Lai. Nam Mô Thuyết Pháp Đệ Nhất Phú Lâu Na Ni Đa La Ni Tử ( Purnamaitrayaniputra - Punnamantaniputta ) Tôn Giả. Nam Mô Trì Giới Đệ Nhất Ưu Bà Ly ( Upali ) Tôn Giả. + Chúng con xin nguyện : “ Lấy Pháp, Giới, Luật Làm Thầy - Nghiêm Trì Giới, Luật “ Nam Mô Giải Không Đệ Nhất Tu Bồ Đề ( Subhuti ) Tôn Giả. + Chúng con cố gắng giữ cho Thân, Khẩu, Ý được thanh tịnh, tỉnh thức trong từng sát na, hơi thở. Nam Mô Luận Nghị ( Hùng Biện ) Đệ Nhất Đại Ca Chiên Diên ( Mahā Kaccāna, Maha Kaccayana, Katyayana ) Tôn Giả. Nam Mô Phúc Lành Đầu Tiên ( s, p : Piṇḍola - Bharadvāja, 賓頭盧頗羅墮 ), Phúc Điền Đệ Nhất ) Tân Đầu Lô Phả La Đọa Xà ( Tân Đầu Lô Phả La Đọa Thệ ( 賓頭盧頗羅墮誓 ), Phả La Đọa ( s : Bharadvāja, 頗羅墮 ), Tân Đầu Lô ( 賓頭盧 ) hay Tân Đầu ( 賓頭 ); Trường Mi Tăng ( 長眉僧 ) hay Trường Mi Sa Môn ( 長眉沙門 ) ). Nam Mô Thần Thông Đệ Nhất Đại Mục Kiền Liên ( Mahà Moggallàna ) Tôn Giả. Nam Mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên ( Mahà Moggallàna ) Bồ Tát. ( ……Dù Cha ra sao vẫn luôn là đấng sinh thành - Dù Mẹ làm sao cũng luôn mang nặng đẻ đau ……). Nam Mô Tây Thiên ( Ấn Độ ), Đông Độ ( Trung Hoa ), An Nam ( Việt Nam ), Xiêm La ( Thái Lan ) Truyền Giáo Lịch Đại Tổ Sư Giác Linh. Nam Mô Pháp Nam Mô Tăng. Nam Mô Phật. Nam Mô Pháp. Nam Mô Tăng. Phật Pháp cao siêu lý ẩn sâu, trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu, con nay nghe thấy chuyên trì tụng, nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu. Phục nguyện : Thượng chúc Phật nhật tăng huy, pháp luân thưởng chuyển, phong đều vũ thuận, quốc thới dân an, thiên hạ thái bình, thiền môn thanh tịnh. Phổ nguyện : Âm siêu dương thới, hải yến hà thanh, pháp giới chúng sinh, tề thành Phật đạo, đồng sanh Cực Lạc, đồng kiến Di Đà, đồng ngộ vô sanh, đồng thành Phật đạo. Cầu nguyện : Dịch bệnh, chiến tranh, tai ương, tà thuyết, mê tín sớm tiêu trừ vĩnh viễn ở tất cả thế giới ( hữu hình và vô hình; hữu tình và vô tình ). Chúng con thành tâm cầu nguyện cho giác linh Các Vị Cố Tôn Đức do niên cao lạp trưởng, bệnh duyên hoặc vì các nguyên nhân khác mà đã thuận thế vô thường, thu thần viên tịch sớm cáo đăng Phật quốc, đáo lai Ta Bà phổ độ chúng sinh Chúng con cũng thành tâm cầu nguyện cho các hương linh, vong linh cũng sớm được siêu thoát về miền an lạc. Chúng con thành tâm tri ân công đức của Thị Giả, Tôn Giả, Trưởng Lão, Sư, Qúy Hòa Thượng, Ni Trưởng, Thượng Tọa, Ni Sư, Đại Đức, Sư Cô, Tỷ Khưu, Tỷ Khưu Ni, Thất Xoa Ma Na, Sa Di, Sa Di Ni, Phật Tử, Tứ Chúng, Tinh Xá, Tăng Đoàn, Đạo Tràng và Kênh rất nhiều lắm. Chúng con thành tâm cầu nguyện cho Qúy Tôn Đức cùng tất cả pháp giới chúng sinh : Pháp thể thinh an, chúng sinh dị độ, Phật sự viên thành, an lành trong cuộc đời, vạn sự cát tường như ý, hanh thông trong Phật Pháp, sớm đạt Niết Bàn tịch tịnh, giác ngộ Phật tánh, nhận rõ Phật tâm, sống an lành trong ánh từ quang của mười phương Chư Phật. Chúng con thầm nguyện cầu cho thế giới luôn hòa bình, chúng sinh an lạc, biết quay đầu và hướng về giáo pháp Phật đà; tâm và tướng muốn tốt đẹp xuất phát từ sự chân thật, tinh tấn tu hành, không phải là nét đẹp ở bên ngoài vì “ phàm những gì có hình tướng đều không bền, hoại diệt “; đẩy lùi các tư tưởng giết hại xuất phát từ lòng sân hận, tham lam, bố thí nhưng thiếu chánh niêm,……của ba nghiệp tham, sân, si của Thân, Khẩu, Ý, tinh thần bất bình đẳng giữa các chúng sinh, tầng lớp xã hội, quan điểm chính trị, giai cấp…..loại bỏ các hình ảnh, hoạt động kinh doanh có thể gây ra, kích động tham, sân, si của ba nghiệp thân, khẩu, ý của tất cả chúng sinh, đặc biệt là các bạn thế hệ trẻ, những người chưa có duyên vời Phật Pháp. Khuyến khích các nghề nghiệp chân chính như lời Phật, Tổ, Chư Hiền Thánh Tăng đã truyền dạy. Khuyến khích, ca ngợi, trân trọng, không tham ganh, ghen ghét để làm tăng trưởng, tinh tấn tu học theo Phật Pháp của tất cả pháp giới chúng sinh, mọi người. Chúng con thành tâm xin cầu nguyện, cầu mong cho tất cả pháp giới chúng sinh với tín, hạnh, nguyện và hành theo lời dạy của Chư Phật, Tổ, Hiền Thánh Tăng như thế này, thường xuyên : + Quy y, tôn trọng, tin tưởng vào sự thường trụ của Phật Pháp Tăng Tam Bảo để tu Giới, Định, Huệ từ đó diệt trừ ba độc Tham, Sân Si. Điều này nếu thực hiện được thì tránh khỏi sáu tội ngũ nghịch lớn : 1. Giết cha. 2. Giết mẹ. 3. Giết A La Hán. 4. Làm thân Phật chảy máu. 5. Phá hòa hợp Tăng chúng. 6. Lấy trộm đồ vật của Tăng. ......
Phật Pháp và Cuộc Sống : Tất cả các Pháp đều là Phật Pháp : Chúng sanh đa bệnh - Phật Pháp đa phương : ( đoạn 176 ) : 532 / Ý nghĩa & cách thức sử dụng chuông mõ tại tư gia Chuông gia trì và mõ là hai pháp khí quan trọng để hàng Phật tử tụng kinh, niệm Phật tại tư gia. Chuông gia trì được đúc bằng chất liệu đồng, kích thước vừa và nhỏ, thường đặt phía bên tay phải người chủ lễ, khi thỉnh chuông tiếng ngân vang thanh thoát mà trầm hùng. Chuông gia trì chủ yếu sử dụng trong khi làm lễ, tụng niệm. Tiếng chuông gia trì là những hiệu lệnh cần thiết để buổi lễ diễn ra nhịp nhàng đúng với trình tự của khoa nghi, giúp mọi người tham dự lễ hòa hợp, thanh tịnh và hướng đến nhất tâm. Người thỉnh chuông gia trì gọi là duy na. Trong buổi lễ, duy na là người điều hành buổi lễ theo đúng với ý hướng của vị chủ lễ. Vì vậy, người thỉnh chuông gia trì phải am tường khoa nghi và chú tâm cao độ mới có thể làm tốt phận sự của mình. Ngoài chuông gia trì, mõ cũng là một pháp khí rất quan trọng. Mõ được làm bằng gỗ, hình bầu dục, được đặt phía bên tay trái người chủ lễ, khi gõ mõ phát ra tiếng trầm hùng mà thanh thoát. Trong khi tụng niệm, tiếng mõ có tác dụng duy trì sự nhịp nhàng đều đặn, không lộn xộn đồng thời tạo ra cảm giác hân hoan, phấn chấn, và nhờ đó, người tụng niệm khỏi bị rối trí loạn tâm, chuyên nhất vào tiếng kệ lời kinh. Ngoài ra, tiếng mõ nhằm cảnh tỉnh tâm trí những người tham gia tụng niệm khỏi bị buồn ngủ, dã dượi, và cũng chính vì ý này mà quai mõ, thân mõ thường chạm trổ hình cá, loài không bao giờ nhắm mắt ngủ để biểu thị cho sự luôn luôn tỉnh thức. Người gõ mõ trong buổi lễ gọi là duyệt chúng, nghĩa là làm cho đại chúng đẹp lòng, tụng niệm một cách hòa hợp, hân hoan. Vì thế, gõ mõ làm cho vui lòng đại chúng trong khi tụng niệm nhằm giúp họ hướng đến nhất tâm là cả một nghệ thuật, phải học tập và rèn luyện thật nhiều mới có thể làm tròn phận sự. Về cách thức sử dụng chuông mõ tại tư gia, trước khi làm lễ cần đốt hương đèn, kế đó chủ lễ mặc áo tràng trang nghiêm bước vào vị trí trước bàn kinh chuẩn bị quỳ niêm hương, thỉnh ba tiếng chuông ( trước khi thỉnh chuông cần thức chuông, giập nhẹ dùi vào vành chuông ). Trong trường hợp không có người giúp chuông mõ hay tụng niệm một mình thì vị chủ lễ phải kiêm hết cả chuông lẫn mõ. Kế đến vị chủ lễ xướng bài Quán tưởng, cuối bài xá Phật một xá, thỉnh một tiếng chuông. Rồi đến đảnh lễ Tam bảo, trước mỗi lạy thỉnh một tiếng chuông ( khi vị chủ lễ lạy trán chạm đất thì giập chuông - dùng dùi chuông gõ vào vành chuông nhưng giữ lại, không cho âm thanh ngân lên ). Sau khi lễ Phật xong, mọi người ngồi xuống hướng về Tam bảo, chuẩn bị khai chuông mõ để tụng niệm. Ở đây, để tiện diễn đạt, tạm quy ước tiếng chuông là (c) và tiếng mõ là (m). Trước, thỉnh ba tiếng chuông rời nhau - (c), (c), (c). Sau ba tiếng chuông, gõ bảy tiếng mõ theo cách : bốn tiếng đầu rời, hai tiếng sau dính liền, một tiếng sau cùng rời - (m), (m), (m), (m), (m)(m), (m). Tiếp theo là thỉnh chuông và mõ đan xen nhau theo cách : chuông trước mõ sau, ba lần như vậy thì ngừng chuông, kế mõ gõ tiếng thứ tư, tiếng mõ thứ năm và sáu dính liền nhau, tiếng mõ thứ bảy rời - (c), (m), (c), (m), (c), (m), (m), (m)(m), (m) - chấm dứt bằng tiếng giập chuông. Khai chuông mõ xong thì bắt đầu tụng niệm, lệ thường mỗi chữ một tiếng mõ. Cần chú ý là khi tiếng kinh ( kệ ) đầu tiên cất lên, chưa gõ mõ, tiếng thứ hai mới đệm một tiếng mõ, tiếng thứ ba không gõ mõ, tiếng thứ tư, thứ năm về sau nhịp mõ đều đặn. Nếu tụng thần chú thì nhanh, tụng kinh sám thì chậm hoặc vừa; tụng kinh bộ thì nên gõ mõ theo lối “ nhanh dần đều ”. Đến khi chấm dứt bài kinh ( kệ ), muốn dừng lại, thì những tiếng mõ gần cuối gõ chậm lại, hai tiếng mõ áp chót dính liền và tiếng mõ cuối cùng gõ rời ra - (m), (m)(m), (m). Thỉnh chuông cũng vậy, thường thì cuối bài kệ hay cuối đoạn kinh điểm một tiếng chuông. Lúc niệm Phật, muốn chuyển qua danh hiệu khác, thỉnh một tiếng chuông. Khi muốn chấm dứt thì tiếng thứ năm ( hoặc thứ ba ) gần cuối bài kinh ( kệ ) thỉnh một tiếng chuông, tiếng cuối cùng thỉnh thêm một tiếng chuông nữa. Về cách thức tụng niệm, bạn hãy thỉnh một cuốn kinh Nhật tụng bằng tiếng Việt ( tránh dùng kinh Nhật tụng phiên âm Hán - Việt, vì phần nhiều không hiểu nghĩa ). Trong kinh, mỗi phần đều có hướng dẫn tụng niệm rất rõ ràng. Phối hợp với cách sử dụng chuông mõ như đã nêu, bạn có thể tụng kinh, niệm Phật, lễ Phật hàng ngày rất dễ dàng. ......
Phật Pháp và Cuộc Sống : Tất cả các Pháp đều là Phật Pháp : Chúng sanh đa bệnh - Phật Pháp đa phương : ( đoạn 173 ) : 523 / Phật Niết bàn nằm nghiêng bên nào ? Theo Kinh Trường bộ I, ghi nhận hình ảnh Thế Tôn khi chuẩn bị nhập Niết bàn nằm nghiêng bên phải : “ Rồi Thế Tôn, cùng với đại chúng Tỳ kheo đi đến bên kia sông Hirannavati, tại Kusinàrà Upavattana, rừng Sàlà của dòng họ Mallà, khi đi đến nơi liền nói với Tôn giả Ananda : Này Ananda, hãy trải chỗ nằm, đầu hướng về phía Bắc giữa hai cây sàlà song thọ. Này Ananda, Ta nay mệt mỏi, muốn nằm nghỉ. Xin vâng, bạch Thế Tôn ! Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn, trải chỗ nằm, đầu hướng về phía Bắc giữa hai cây sàlà song thọ. Và Thế Tôn nằm xuống, về phía hông bên phải, như dáng nằm con sư tử, hai chân để lên nhau ( Kinh Đại bát Niết bàn, số 16 ). Kinh Trường A hàm cũng ghi nhận tương tự như vậy : “ Bấy giờ Phật vào thành Câu thi, Ngài đến nơi sinh quán đời trước, giữa cây song thọ, thuộc bộ tộc Mạt la, và bảo A nan : Ông hãy sửa chỗ cho Ta nằm, giữa cây song thọ, đầu quay về hướng Bắc, mặt quay về hướng Tây. Sau khi sửa soạn xong, Đức Thế Tôn nằm nghỉ, và tự lấy y Tăng già lê xếp thành bốn lớp đắp lên mình. Ngài nằm nghiêng về bên phải, như sư tử chúa, hai chân chồng lên nhau ” ( Kinh Du hành, số 02 ). Kinh điển Đại thừa, thuộc hệ Phật giáo phát triển cũng ghi nhận Đức Phật nhập Niết bàn nằm nghiêng bên phải : “ Sau khi ba lần thuận nghịch nhập các thiền định cùng phổ cáo đại chúng, Đức Thế Tôn nằm nghiêng bên hữu ( phải ) trên giường thất bảo : Gối đầu phương Bắc, chân chỉ thẳng phương Nam, mặt hướng về phương Tây, lưng day qua phương Đông ( Kinh Đại Bát Niết bàn, phẩm 27 ). Như vậy, nằm nghiêng bên phải là một trong những đặc điểm quan trọng của tướng Niết bàn. Do đó, tạc tượng Phật Niết bàn nằm nghiêng về bên trái, thiết nghĩ không phù hợp với “ Niết bàn tướng ” mà kinh luận Phật giáo đã đặc tả. 524 / Thần thức có mặt trong bào thai khi nào ? Thần thức là một trong ba thành tố căn bản hình thành nên bào thai, mầm sống trong giai đoạn nguyên thủy và sơ khai nhất. Theo Phật giáo, bào thai do tinh cha huyết mẹ cùng thần thức hòa hợp mà thành. Đoạn kinh sau đây đã xác chứng điều này : “ Này các Tỳ kheo, có ba sự hòa hợp mà một bào thai thành hình : ở đây, cha mẹ có giao hợp và người mẹ không trong thời có thể thụ thai, và hương ấm ( gandhabba ) không hiện tiền, như vậy bào thai không thể thành hình. Ở đây, cha và mẹ có giao hợp, và người mẹ trong thời có thể thụ thai, nhưng hương ấm ( gandhabba ) không hiện tiền, như vậy bào thai không thể thành hình. Và này các Tỳ kheo, khi nào cha mẹ có giao hợp, và người mẹ trong thời có thể thụ thai, và hương ấm có hiện tiền; có ba sự hòa hợp như vậy, thì bào thai mới thành hình ” ( Kinh Trung bộ I, Đại kinh Đoạn tận ái, số 38 ). Kết hợp tuệ giác kinh Phật với những khảo nghiệm của khoa học hiện đại, chúng ta có thể xác định, thời khắc thụ thai ( lúc tinh trùng xâm nhập vào trứng ) cũng chính là lúc thần thức có mặt để hội đủ nhân duyên hình thành bào thai. Về vấn đề, người Phật tử ăn trứng vịt lộn có phạm giới sát sanh ? Như chúng tôi đã từng trình bày, ngoài những ngày ăn chay thì người Phật tử ăn uống bình thường. Tuy nhiên trong những ngày không ăn chay ấy, người Phật tử nên mua các thực phẩm ( cá, thịt ) đã làm sẵn, không trực tiếp giết hại. Do vậy, nếu người Phật tử luộc trứng vịt lộn ( trực tiếp giết ) thì mang tội sát sanh nhưng mua trứng mà người ta đã luộc sẵn về ăn thì không phạm giới sát. Nhân đây thiết nghĩ cũng cần nói thêm rằng, ăn trứng vịt lộn ở xứ ta là chuyện bình thường nhưng với đa phần người nước ngoài xem đó là “ dã man ”. Vì thế, trong những ngày không ăn chay, Phật tử cũng nên tránh các thực phẩm “ độc ” có thể gây thêm tính ác cho con người. 525 / Bất hiếu & tà kiến ? Chị của bạn lúc gần cuối đời, một phần do bệnh tật đau đớn hành hạ, một phần do phiền muộn và tức giận con cái nên đã nói ra những lời cay độc. Những dấu hiệu đó cho thấy trước lúc chết, cận tử nghiệp của chị cũng không được thanh thản và nhẹ nhàng. Thông thường, người lúc sắp lâm chung mang cận tử nghiệp xấu ác thì khó có thể sanh vào cõi lành. Còn những người con của chị bạn đã không tròn câu hiếu đạo khi mẹ của họ còn sanh tiền. Sau khi mẹ chết, vì sợ “ mẹ về cắn ” nên họ đã nhờ thầy pháp trấn yểm, giam cầm mẹ vĩnh viễn ngoài phần mộ chịu lạnh lẽo, đói khát lại càng bất hiếu hơn. Ở đây, chúng tôi chưa nói đến việc liệu thầy pháp có thực sự làm được những yêu cầu ấy hay không, chỉ xét đến động cơ của việc làm này đã cho thấy con cái đã cạn tình với mẹ, bất hiếu nặng nề. Theo quan điểm của Phật giáo, một người khi chết đi thì thần thức theo nghiệp thọ sanh. Năng lực của nghiệp rất mạnh mẽ không gì có thể ngăn cản được. Do đó, việc nhờ thầy pháp trấn yểm để giam cầm vĩnh viễn người chết dưới mộ phần là điều không thể. Trấn yểm người thân chỉ là tín niệm dân gian, mang sắc thái tà kiến, mê tín, phi nhân và phi nghĩa. Thiết nghĩ, việc giải thoát cho chị của bạn, theo hướng tháo gỡ bùa phép đã trấn yểm, thực sự là không cần. Vì như đã nói ở trên, không gì có thể ngăn được nghiệp lực tìm hướng tái sanh nên chắc chắn chị của bạn không bị “ nhốt dưới mộ ” mà sẽ tùy nghiệp tái sanh vào một trong những cảnh giới của lục đạo. Tuy nhiên, với cận tử nghiệp nhiều vướng mắc và muộn phiền nên chị của bạn khó được sanh vào cõi lành. Trong Phật giáo có những pháp thức siêu độ vong linh, nhất là những chúng sanh đọa lạc trong tam đồ, ác đạo. Vấn đề là, những người thân có tâm nguyện và khả năng để thỉnh Tăng lập đàn siêu độ cho người chết hay không. ......
Phật Pháp và Cuộc Sống : Tất cả các Pháp đều là Phật Pháp : Chúng sanh đa bệnh - Phật Pháp đa phương : ( đoạn 177 ) : 533 / Giữ giới không sát sanh Trong năm giới, giới không sát hại chúng sanh được xếp đầu tiên, vì giết hại là một tập khí sâu dày của chúng sanh nên Đức Phật nhấn mạnh để chúng ta lưu tâm. Người Phật tử giữ giới không sát sanh cần hết sức lưu ý rằng : Trọng tâm của giới này là không giết người, kế đến là tránh giết các loài to lớn như heo gà chó mèo…, đối với các loài li ti nhỏ nhít thì cũng không cố sát nhưng nếu vô tình giẫm đạp hay làm tổn hại chúng thì phải thành tâm sám hối. Do đó, nếu giết người thì người Phật tử phạm giới thứ nhất không sát sanh, chắc chắn sẽ đọa vào ác đạo, chịu quả báo nặng nề. Còn nếu cố tình ( hay vô ý ) giết hại các loài vật khác thì bị khuyết giới, tuy vẫn bị quả báo xấu về sau ( tùy mức độ tạo nghiệp ) nhưng có thể ăn năn, sám hối. Tùy theo sự thành tâm sám hối của mình, đồng thời nguyện không tái phạm và tích cực phóng sanh thì nghiệp sát của mình sẽ mỏng dần cho đến nhẹ nhàng. Trong trường hợp vì công việc hay giao tế cần tham dự tiệc tùng với đối tác và bạn bè, nếu bạn làm tổn hại chúng sanh ( như ăn lẩu tôm, cá còn sống nấu ngay trên bàn ) thì như trên đã nói, bạn bị khuyết giới chứ chưa phạm giới. Do đó, bạn phải thành tâm sám hối tội lỗi nghiệp chướng của mình. Tuy nhiên, trong những trường hợp có thể từ chối được, bạn cần nói rõ với mọi người rằng bạn là Phật tử, đã phát nguyện không sát hại chúng sanh. Dẫu ngoài những ngày ăn chay thì bạn vẫn ăn uống bình thường nhưng đó là thực phẩm đã làm sẵn, không trực tiếp giết hay chứng kiến người khác giết các loài vật để làm thức ăn cho mình. Sự hòa hợp với bạn bè là cần thiết nhưng vẫn có thể hòa mà không đồng. Đơn cử như có khá nhiều người tham dự tiệc tùng mà phải ăn kiêng vì bệnh thì họ chỉ dùng những món phù hợp. Cũng vậy, trong khi nhóm bạn bè ăn lẩu tôm tươi sống, nếu bạn không thích thì có thể gọi cho mình một món khác phù hợp hơn mà không có gì trở ngại cả. Thiết nghĩ, người Phật tử chân chính nên tự khẳng định mình là Phật tử trước mọi người và luôn thể hiện những phẩm chất đạo đức tốt đẹp ( không giết hại, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không say nghiện ) của mình. Chính sự thẳng thắn và thành thật về mình ( là một Phật tử ) thì mọi người sẽ tôn trọng, hiểu và cảm thông với mình hơn, nhất là không hề cho mình là lập dị hay cố tình khác người. 534 / Tùy duyên trong Phật giáo là thế nào ? Duyên sinh ( duyên khởi ) là một trong những giáo lý trọng yếu của Phật giáo. Mọi sự, mọi việc ở đời đều do nhân duyên sinh. Các nhân duyên tác động và chi phối lẫn nhau trùng trùng điệp điệp, vô cùng vô tận. Tùy duyên có nghĩa chính là tùy thuộc vào nhân duyên. Đủ nhân ( nguyên nhân chính ), đủ duyên ( các nhân phụ ) thì sự việc ( vật ) thành; thiếu nhân, thiếu duyên thì sự việc ( vật ) chưa thành. Sự thành - trụ - hoại - không của thế giới hay sanh - lão - bệnh - tử của nhân sinh hoàn toàn tùy thuộc vào nhân duyên. Người Phật tử biết các pháp đều tùy duyên nên chủ động nỗ lực tạo ra các nhân duyên tốt lành để mong nhận quả báo tốt đẹp. Nếu thành công thì người Phật tử cũng không quá tự hào, vì biết duyên lành đã tròn đủ. Ngược lại, sau khi đã hết sức cố gắng mà nếu như sự việc vẫn không như ý mình thì cũng an nhiên, vì chưa đủ duyên. Tùy duyên là tâm thái sống minh triết, an nhiên trước mọi biến động của cuộc đời. So với quan niệm “ cái gi đên rôi sẽ đến nên ” một cách đơn thuần thì tinh thần tùy duyên năng động hơn rất nhiều trong việc chủ động tạo thêm nhân duyên tốt lành đồng thời cũng rất nhẹ nhàng nếu “ cái sẽ đến ” không được toại nguyện, như ý. 535 / Điều phục vọng tưởng : Những nỗi khổ niềm đau trong đời thì ai cũng có. Theo thời gian, có người nhanh chóng quên đi quá khứ đau buồn hoặc có nhớ lại thì cũng thoáng qua. Nhưng có người thì không thể nào nguôi ngoai được, ký ức về quá khứ đau buồn rất sâu đậm và mạnh mẽ, luôn trỗi dậy trong tâm trí khiến cho vết thương lòng càng thêm dai dẳng. Nói về nhân quả - nghiệp báo thì tất cả những biểu hiện của thân tâm mình trong hiện tại đã phản ánh rõ nét nghiệp của mình đã gây tạo trong quá khứ ( xa và gần ). Điều đáng nói là nghiệp lực của mỗi người do tự mình tạo ra nhưng nghiệp không cố định, nếu nỗ lực tu dưỡng thì có thể chuyển hóa được. Bạn hay nhớ lại chuyện “ những người gây oán thù với mình ”. Dù bạn không muốn nhớ những chuyện đau buồn ấy nhưng vẫn cứ nhớ, chứng tỏ trong sâu thẳm của nội tâm bạn vẫn còn cố chấp, chưa thực sự buông xả. Bạn cần bình tâm quán sát thật rõ về những “ oán thù ” ấy để thấy rằng đó là quả đắng của các nhân bất thiện trong những đời quá khứ. Có vay thì phải trả, trả được chừng nào thì nhẹ nhàng hơn chừng nấy. Khi chưa biết đạo, tâm mình luôn ghim gút hận thù. Nay mình hiểu rõ đạo lý nhân quả - nghiệp báo ( tất cả đều do mình ) nên chấp nhận những quả báo xấu, xem như đã trả nợ rồi buông xả và tha thứ hết thảy, kể cả những người đã làm khổ mình. Chính sự chấp nhận, tha thứ và buông xả đã tháo tung nội kết chôn vùi trong tâm bấy lâu nay. Khi hạt giống khổ đau và oán hận được nhổ lên và chuyển hóa thì chúng sẽ ít tái hiện lại trong tâm thức. Nhờ đó, tâm bạn sẽ thanh thản, nhẹ nhàng hơn. Đối với vấn đề bạn “ hay lo lắng mặc dù chuyện ấy chưa xảy ra với mình và lại hay đặt tình huống giả định rồi sợ hãi ” chính là vọng tưởng và cũng là nghiệp riêng của bạn. Bạn nên quán chiếu việc quá khứ thì đã qua rồi, việc tương lai thì chưa đến để an trú trong hiện tại; mà thực ra hiện tại cũng đang trôi chảy nói gì đến tương lai. Đối với ý kiến cho rằng “ vọng tưởng của mình là do các vong linh gợi lên ”, theo chúng tôi, có chăng cũng chỉ là một vài trường hợp hi hữu như báo mộng chẳng hạn. Người học Phật có chánh kiến cần xác quyết rằng vọng tưởng chính là do nghiệp lực của mình ( nội ma ) dấy động, không nên nghĩ rằng vọng tưởng đó là do trời thần ma quỷ vong hồn nào đó ( ngoại ma ) gợi lên. Bạn đã biết niệm Phật A Di Đà ( hay Bồ tát Quán Thế Âm ) thì hàng ngày nên siêng năng niệm Phật, lấy đó làm pháp môn tu của mình. Cần có ít nhất hai thời niệm Phật cố định trong ngày, sau đó tùy duyên niệm Phật mọi lúc, mọi nơi. Trong quá trình tu tập, không phải đợi vọng tưởng khởi lên mới niệm Phật mà ngược lại bạn luôn niệm Phật, còn vọng tưởng khởi lên thì cứ mặc nhiên ( chỉ cần chánh niệm nhận biết rõ mà không duyên theo rồi tự nó cũng tan biến mà thôi ). Vọng tưởng như vang theo tiếng, như bóng theo hình. Phải thấy rằng, vọng tưởng là khách, tâm chánh niệm với Phật hiệu mới là chủ. Khách đến mà chủ không tiếp thì khách tự ra đi. Nên trọng tâm tu tập của bạn là “ không ngại vọng tưởng khởi lên, chỉ ngại không nhất tâm niệm Phật ”. Việc sám hối nghiệp chướng, oan gia trái chủ tiền khiên cũng rất cần thiết nhưng chính yếu của tu tập là thiết lập được giới - định - tuệ trong đời sống hàng ngày. Sống đạo đức thì tâm mới an định, tâm được định thì trí mới sáng, trí sáng thì vô minh phiền não tiêu tan, và nhờ đó bạn thành tựu thảnh thơi, an lạc. ......
Phật Pháp và Cuộc Sống : Tất cả các Pháp đều là Phật Pháp : Chúng sanh đa bệnh - Phật Pháp đa phương : ( đoạn 172 ) : 520 / Thờ tượng Phật ngoài trời tại tư gia có phạm pháp ? Trước hết chúng tôi hoan nghênh tinh thần “ là Phật tử chân chánh, luôn tôn trọng pháp luật ” của bạn. Là một công dân tốt, một Phật tử mẫu mực thì điều đầu tiên phải tuyệt đối tuân thủ pháp luật. Nói về pháp luật thì đương nhiên là đúng đắn, quy định cụ thể, chi tiết và ngày tháng rõ ràng. Pháp luật luôn được công khai, mọi người đều biết rõ để cùng nhau chấp hành. Trường hợp cán bộ xã buộc người dân thực thi pháp luật mà chỉ nói chung chung, ra lệnh bằng miệng, cố tình giấu giếm hoặc không dựa vào văn bản pháp luật hiện hành nào cả là điều không thể chấp nhận. Bạn là người dân nên vốn không mấy am tường về các văn bản pháp luật, nhất là các nghị định, nghị quyết… mới, nên có quyền yêu cầu cán bộ hướng dẫn cụ thể để hiểu và chấp hành. Nếu cán bộ không đưa ra văn bản pháp luật nào mà bắt buộc hay cưỡng chế người dân di dời một công trình nào đó thì chính các cán bộ ấy vi phạm pháp luật. Có hai vấn đề cần đặt ra trong trường hợp của bạn, nếu thực sự có văn bản pháp luật mới quy định cấm “ thờ tượng Phật ngoài trời ” tại tư gia thì phải xem thời gian ra đời của văn bản đó. Bạn đặt tượng từ 07 năm trước, nay mới có quy định thì chắc chắn bạn không vi phạm pháp luật. Trong trường hợp này, cán bộ nên ân cần vận động, nhẹ nhàng giải thích, hỗ trợ nhiều cách cho người dân hiểu vấn đề để họ tự nguyện thực thi pháp luật vì lợi ích chung. Ngược lại, nếu bạn dựng tượng sau ngày ban hành văn bản pháp luật thì bạn đã phạm pháp. Trường hợp này cán bộ mới có quyền xử lý người vi phạm theo pháp luật hiện hành. Về phương diện văn bản pháp luật, chúng tôi đã tìm hiểu Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo ( số 21 / 2004 / PL - UBTVQH11, ngày 18 - 6 - 2004 ), Nghị định số 92 / 2012 / NĐ - CP ( do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký ngày 8 - 11 - 2012 về tín ngưỡng, tôn giáo ), Hiến chương Giáo hội Phật giáo Việt Nam ( tu chỉnh lần 5 ), Nội quy Ban Hướng dẫn Phật tử Trung ương ( tu chỉnh lần 4 )… và cũng chưa tìm thấy quy định cấm “ thờ tượng Phật ngoài trời ” tại tư gia Phật tử. Điều đáng nói là hiện nay, một số địa phương trên cả nước vẫn tồn tại việc chính quyền yêu cầu người dân Phật tử tháo dỡ, di dời tượng thờ lộ thiên tại tư gia ( ra lệnh bằng miệng ) mà hầu như không đưa ra một văn bản pháp luật nào cả. Điều này khiến cho không ít Phật tử bức xúc phản đối cũng như tạo ra sự lúng túng trong khi xử lý vấn đề của chính quyền địa phương. Thiết nghĩ, Giáo hội Phật giáo Việt Nam cần phối hợp với các ban ngành chức năng của Nhà nước sớm ban hành quy chế cụ thể về tượng thờ lộ thiên ( như địa điểm và cách thức tôn trí, kích thước tôn tượng… ) để người Phật tử được tự do thể hiện tín ngưỡng cũng như sự quản lý của Nhà nước được thuận tiện và rõ ràng. Cần nói thêm rằng, trong đời sống thực tiễn xã hội, việc Phật tử thờ tượng Bồ tát lộ thiên ở trên sân thượng, non bộ và trong sân vườn tại tư gia Phật tử là truyền thống lâu đời và rất phổ biến. Trong tín ngưỡng thờ phụng của Phật giáo, hầu hết các vị Phật và Bồ tát, Thánh tăng thường thờ trong chánh điện, đặc biệt riêng Bồ tát Quán Thế Âm thường được thờ ngoài trời, ngoài biển, ngoài vườn ( quen gọi là Quán Âm lộ thiên ). Trở lại vấn đề, bạn đang sống trong một xã hội với hệ thống pháp luật tương đối hoàn chỉnh và nghiêm minh. Vì thế, nếu chính quyền xã nơi bạn cư trú không đưa ra văn bản nào của Nhà nước quy định cấm “ thờ tượng Phật ngoài trời ” tại tư gia Phật tử thì bạn không có nghĩa vụ chấp hành, và bạn hoàn toàn không vi phạm pháp luật. 521 / Cần làm phước để hồi hướng Trong vòng 49 ngày là khoảng thời gian tốt nhất cho thân nhân làm phước rồi hồi hướng công đức cho người thân đã mất. Cách thức làm phước thì rất đa dạng, nhưng thông dụng và phổ biến hơn cả là phát tâm tụng kinh, cúng dường, bố thí, ăn chay, ấn tống kinh sách, phóng sanh,…nói chung là hướng Phật, làm lành. Cần lưu ý là, việc làm phước của thân nhân chỉ có tác dụng trợ duyên nhằm “ ảnh hưởng tốt nhất đến tiến trình tái sanh ” mà thôi chứ không mang tính quyết định. Chính nghiệp lực của mỗi người tốt hay xấu kết hợp với khả năng thức tỉnh nhiều hay ít mới là nhân tố quan trọng quyết định xu hướng tái sanh vào cảnh giới lành hay dữ trong lục đạo. Sau khi hỏa táng, tro cốt người mất nên thờ ở chùa hay nghĩa trang; ở nhà chỉ nên thờ di ảnh mà thôi. 522 / Thân trung ấm tồn tại có trái ngược với giáo lý Vô ngã ? Đúng là trong Kinh Bát Nhã, Đức Phật dạy “ năm uẩn đều không ”. Khó hiểu nhất trong lời dạy này là chữ Không. Không đây không phải mang nghĩa đối lập với có, là không có gì cả mà siêu việt nghĩa có - không thường tình. Không chính là không có tự tính, duyên khởi tính, vô ngã tính, là Sunyata. Như vậy, Phật dạy thân năm uẩn này là không có tự ngã, do duyên sanh chứ không nói thân này là “ không có cái gì cả ”. Ngoài giáo lý duyên sanh, vô ngã, Đức Phật còn dạy về luân hồi và tái sanh. Con người sau khi chết không mất hẳn mà tái sanh vào trong lục đạo tương ứng với nghiệp của mình. Vậy cái gì đi tái sanh ? Cái đó, tạm gọi là “ thần thức - hương linh - thân trung ấm - trung hữu ”. Điều đáng nói là cái thần thức… này không phải là linh hồn trường cửu, bất biến ( như quan niệm của các tôn giáo khác ) mà nó cũng duyên sanh, vô ngã như thân năm uẩn vậy. Có thể nói, khi còn sanh tiền năm uẩn đều Không, khi mất rồi thần thức… cũng đều Không. Và như thế, không có gì chấp ngã hay không đúng với “ lời kinh, ý Phật ” hoặc “ ngược lại với giáo lý vô thường, vô ngã, tánh không ” cả. Theo chỗ bạn biết : “ thời Đức Phật còn trụ thế, Ngài chưa từng nói về lễ cầu siêu, cũng chưa từng có thuyết linh ”, thiết nghĩ, bạn có biết nhưng chưa trọn. Trước hết, đối tượng để cầu siêu không phải chỉ có thần thức, thân trung ấm mà các chúng sanh trong ác đạo ( đặc biệt là loài ngạ quỷ sống quanh ta ). Thời Phật tại thế, chính Đức Phật cũng như các Tỳ kheo nói pháp khai thị ( thuyết linh ) cho các ngạ quỷ, dạ xoa, la sát giác ngộ, bỏ tà quy chánh rất nhiều. Mặt khác, mỗi khi có người qua đời, tứ chúng thường hỏi Thế Tôn vị ấy sanh về nơi nào, Thế Tôn thường nói cho tứ chúng biết rõ người ấy đã siêu thoát hay bị đọa lạc. Và như thế, lễ cầu siêu hiện nay là hoàn toàn cần thiết trong tâm nguyện cầu âm siêu, dương thái của mọi người. Vấn đề “ Đức Thế Tôn có phải đang dần bị các thứ nghi lễ kia thần thánh hóa, biến thành vị thần xin thì cho, cầu thì ban hay không ” hoàn toàn tùy thuộc vào tuệ giác, chánh kiến của những người thực hành các nghi lễ cầu an, cầu siêu. Nếu những thí chủ tổ chức lễ chỉ nhằm “ xin, cầu ” Phật cho họ an, siêu và những vị Tăng ( Ni ) cũng nhắm mắt “ xin, cầu ” giúp cho thí chủ mà không khai hóa, hướng dẫn họ hiểu và tu học đúng như Chánh pháp thì việc này không phải là Phật sự đúng nghĩa. Bởi Phật không có quyền ban phúc hay giáng họa cho ai nên “ xin, cầu ” thì Ngài cũng không giúp được ( huống là những Tăng, Ni bình thường ). Chỉ có nhân quả mới thực sự có quyền năng, nên hãy gieo nhân lành để gặt phước quả tốt đẹp. Phật dạy nên “ xin, cầu ” điều tốt để hưởng quả lành. Cầu siêu cũng vậy, Phật cũng không giúp cho họ siêu sanh, và chúng ta không một ai có thể làm cho họ siêu sanh, trừ việc chính họ tỉnh thức mà thăng hoa, siêu thoát. Đức Phật là bậc Giác ngộ, giáo pháp của Ngài luôn đồng nhất một vị giải thoát. Vì thế, cần nghiên tầm và thực hành theo đúng Chánh pháp để được lợi ích, an lạc. ......
Phật Pháp và Cuộc Sống : Tất cả các Pháp đều là Phật Pháp : Chúng sanh đa bệnh - Phật Pháp đa phương : ( đoạn 216 ) : 665 / Phật lịch được tính như thế nào ? Niên đại Đản sinh và nhập Niết Bàn của Đức Phật Thích Ca, về phương diện nghiên cứu độc lập hiện tồn nhiều thuyết khác nhau, nhưng về phương diện phổ quát, Phật giáo thế giới đều thống nhất Đức Phật Thích Ca đản sinh năm 624 ( trước Tây lịch ) và nhập Niết Bàn năm 544 ( trước Tây lịch ), trụ thế 80 năm. Về Phật lịch, Phật giáo thế giới lấy mốc năm Đức Phật Thích Ca nhập Niết Bàn để tính năm đầu Phật lịch ( 544 trước Tây lịch ). Khởi nguyên từ Đại hội Phật giáo Thế giới tổ chức lần thứ I tại Sri Lanka ( Tích Lan ) vào năm 1950, toàn thể đại biểu Phật giáo đại diện 26 quốc gia thống nhất lấy năm Đức Phật Thích Ca nhập Niết Bàn làm mốc để tính năm đầu Phật lịch ( cờ Phật giáo thế giới cũng được quyết nghị công bố và áp dụng tại Đại hội lịch sử này ). Đến Đại hội Phật giáo thế giới lần thứ VI, tổ chức tại Campuchia vào năm 1961, thống nhất ngày kỷ niệm Phật đản sinh trên toàn thế giới là ngày rằm tháng Tư âm lịch ( ngày trăng tròn tháng Vesak của Ấn Độ ). Cách tính Phật lịch là lấy năm Đức Phật nhập Niết Bàn cộng với năm hiện tại. Ví dụ, năm 2023 thì Phật lịch được tính : 544 + 2023 = 2567. Tuy nhiên, nói năm 2023 ứng với Phật lịch 2567 là nói chung, chính xác phải tính được ngày để sang năm mới Phật lịch. Hiển nhiên, Phật giáo thế giới đã chọn năm Phật Thích Ca nhập diệt làm mốc tính năm đầu Phật lịch thì chắc chắn ngày sang trang Phật lịch trong năm phải là ngày kế sau ngày Đức Phật nhập diệt. Nhưng thực tế hiện nay, ngày sang trang Phật lịch trong năm lại là ngày kế sau ngày Đức Phật đản sanh ( ngày 16 - 4 âm lịch ). Vì sao như vậy ? Theo Phật giáo Bắc truyền, Đức Phật Thích Ca đản sanh ngày 15 - 4 âm lịch ( trước năm 1960 là ngày 08 - 4 âm lịch ), Thành đạo ngày 08 - 12 âm lịch và Nhập diệt ngày 15 - 02 âm lịch. Theo Phật giáo Nam truyền, ngày 15 - 04 âm lịch ( ngày trăng tròn tháng Vesak ) là ngày Đại lễ Tam hợp, kỷ niệm ba sự kiện Phật Thích Ca Đản sanh, Thành đạo và nhập Niết Bàn. Hiện Phật giáo thế giới đã chuẩn hóa ngày sang trang Phật lịch là ngày kế sau ngày Phật Niết Bàn ( ngày 16 - 04 âm lịch ) hàng năm. Nhưng vì ngày Phật nhập diệt trùng với ngày Phật đản sanh ( theo Phật giáo Nam truyền ) nên khiến nhiều người nghĩ rằng sau ngày Phật đản là ngày sang trang Phật lịch. Như vậy, sau khi xác định được ngày sang trang năm mới Phật lịch là ngày 16 - 04 âm lịch hàng năm, thì ngay trong năm 2023, trước ngày 16 - 04 âm lịch ( trước 03 - 6 - 2023 ) Phật lịch vẫn tính 2566, từ ngày 16 - 04 âm lịch ( 03 - 6 - 2023 ) trở đi cho đến Phật đản năm sau, Phật lịch được tính 2567. Như đã trình bày, hai truyền thống Phật giáo lớn trên thế giới đều thống nhất về năm Phật lịch đầu tiên là năm Đức Phật nhập Niết Bàn. Tuy vậy, về ngày Đức Phật nhập Niết Bàn giữa hai truyền thống Phật giáo có chút khác biệt ( Nam truyền ngày 15 - 04 âm lịch, Bắc truyền ngày 15 - 02 âm lịch ), và Phật giáo thế giới chọn ngày 16 - 04 âm lịch để sang trang năm mới Phật lịch là theo Phật giáo Nam truyền. 666 / Không tin vào bói toán Hai vợ chồng của bạn trước khi cưới nhau đã có chánh kiến, quyết không tin vào bói toán, tuổi tác hạp kỵ... thì nên giữ vững lập trường của mình. Còn việc bạn không may bị sẩy thai đứa con đầu lòng cũng là chuyện bình thường, nếu đó là bệnh thì chạy chữa theo hướng dẫn của bác sĩ. Không nên đi xem bói toán vì nếu sa vào tà kiến này thì chỉ tiền mất tật mang. Theo Chánh pháp của Đức Phật, các lễ “ giải đàn kim lâu ”, lễ “ tào quan, đám cưới âm ” là tín ngưỡng dân gian đều không có ích gì cho việc tăng phước, chuyển nghiệp hay chính xác là những việc cầu cúng ấy không thể can thiệp vào đời sống hạnh phúc hôn nhân hay việc sinh con đẻ cái như một số người nhẹ dạ cả tin. Vì thế, vợ chồng bạn hãy tin tưởng sâu sắc vào nhân quả, nghiệp báo mà lo tu tạo phước điền, chuyển hóa ba nghiệp. Trước, các bạn nên đi khám bệnh, tìm hiểu thêm về sức khỏe sinh sản để chuẩn bị mang thai và sinh con. Kế đến, là Phật tử phải tuyệt đối nương theo Chánh pháp, nhân quả rất rõ ràng, nghiệp nhân do mình tạo thì nghiệp quả mình mang, nếu tạo nghiệp nhân thiện lành ắt hẳn sẽ có nghiệp quả tốt đẹp. Phải làm chủ đời mình bằng cách nâng cao hiểu biết để không rơi vào mê tín, tà kiến, đồng thời nỗ lực tu học, vun bồi công đức, sống thiện lành thì chắc chắn các bạn sẽ bình an và hạnh phúc. 667 / Băn khoăn về thời gian thọ giới Về nguyên tắc, khi phát nguyện trước Tam bảo xin thọ trì giới Bát quan trai đúng theo giới luật là một ngày một đêm. Sở dĩ Đức Phật chế định thời gian khóa tu Bát quan trai cho hàng Phật tử kéo dài đến 24 giờ vì nếu ít hơn thì không đủ thời lượng để lắng đọng tâm tư nhằm chuyên tâm tu niệm, còn nếu dài hơn thì người cư sĩ sẽ không có thời gian, và nhất là không kham nổi nếp sống phạm hạnh. Tuy vậy, ngày nay phần lớn các chùa vì không đủ điều kiện cho số đông hàng Phật tử lưu trú qua đêm nên phương tiện rút ngắn chỉ còn một ngày. Việc giảm bớt thời lượng của khóa tu Bát quan trai là do hoàn cảnh nhà chùa, đồng thời cũng phù hợp với thực tiễn đời sống bận rộn của hàng Phật tử. Vì thế, trên tinh thần phương tiện, Quý Tăng Ni chỉ tổ chức khóa tu trong một ngày, sáng thọ giới và đến chiều xả giới. Xả giới xong là khóa tu kết thúc, các Phật tử về nhà sinh hoạt bình thường. Sau khi về nhà, một số Phật tử tinh tấn vẫn phát tâm giữ giới và tu niệm cho đến sáng hôm sau. Việc này hoàn toàn có tính tự giác, tự nguyện để vun bồi công đức chứ không bắt buộc. Còn đa phần thì sau khi kết thúc khóa tu về nhà sinh hoạt ăn uống bình thường, điều này không hề có bất cứ vi phạm nào đối với giới Bát quan trai cả. 668 / Không có ý niệm vãng sanh Vãng sanh, trong ngữ nghĩa thông thường là sanh qua ( lên ) một thế giới khác tốt đẹp hơn. Trong giáo pháp Tịnh Độ, vãng sanh là sanh về thế giới Cực Lạc của Phật A Di Đà. Khi vãng sanh, dù chỉ ở bậc thấp nhất của Cực Lạc nhưng chắc chắn sẽ không còn thối đọa nên được vãng sanh cũng hàm nghĩa là thành tựu giải thoát. Tại Việt Nam, Tịnh Độ tông khá phát triển nên ý niệm vãng sanh Tây Phương Cực Lạc tương đối phổ biến khiến cho bạn “ thấy hầu như những ai tu hành đều hướng tới mục đích cuối cùng là được vãng sanh ”. Thực ra, tu tập theo Phật giáo với nhiều công hạnh và mục đích thành tựu khác nhau, từ thấp đến cao theo thứ tự Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa, Bồ Tát thừa. Theo như bạn cho biết thì bạn chỉ có thú hướng Nhân thừa, tức kiếp sau tiếp tục tái sanh làm người có phước báo, có duyên lành gặp Phật pháp để tu học. Muốn được như vậy thì pháp tu căn bản là quy y Tam Bảo và giữ gìn năm giới trọn vẹn song hành với việc thực thi các hạnh lành. So với những thắng duyên của một người được vãng sanh Cực Lạc thì người thú hướng Nhân thừa chắc chắn không thể sánh bằng. Tuy nhiên, đây là chí nguyện riêng của bạn nên được mọi người tôn trọng. Khi đọc kinh hàng ngày đến đoạn “ nguyện vãng sanh Tây Phương Cực Lạc ”, dù bạn không có ý niệm vãng sanh nhưng thiết nghĩ bạn cứ nên đọc tụng bình thường cho trọn khoa nghi để được thập phần công đức. Bạn cứ đọc mà không sợ dối lòng, vì ngay cả những đoạn kinh khác bạn tụng đọc hàng ngày rất thành tâm, vô cùng hợp ý nhưng chưa hẳn bạn đã làm được. Nên chúng tôi nghĩ rằng việc tụng đọc đó ( đọc mà không nguyện ) cũng tựa như bạn đang gieo vào tâm những hạt giống lành mà chẳng hề nghĩ đến hoa trái. Nhưng biết đâu một ngày nào đó hội đủ duyên lành thì những hạt giống ấy sẽ chuyển mình thức giấc rồi sẽ kết trái đơm hoa. ......
Nam Mô Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo Nam Mô Ta Bà Giáo Chủ Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật ( Mỗi người hãy tự mình thấp đuốc lên mà đi, hãy tự làm hòn đảo cho chính mình. Tin chắc rằng : Phật, Pháp, Tăng là thường trụ, Phật luôn ở trạng thái Niết Bàn “ tuyệt đối “; Phật giác ngộ là tự mình, do trí “ vô sư, chứ không hải trí hữu sư “; Phật quan sát và nhìn cuộc đời, sự vận hành của tất cả các Pháp mà giác ngộ vì “ tất cả các Pháp đều là Phật Pháp “, “ Như Lai là nghĩa các Pháp như như “; “ Tất cả chúng sinh dù hữu tình hay vô tình đều có Phật tánh “; “ Tất cả các Pháp đều vận hành theo lý “ Duyên sinh “, “ Nhân qủa “, “ Phước nghiệp “……; Khi chiêm ngưỡng tượng Phật, Chúng ta cố gắng thường hình dung Đức Phật đản sanh ở Ca Tỳ La Vệ, Phật thành đạo ở Bồ Đề Đạo Tràng, Phật thuyết pháp ở Ba La Nại và Phật nhập diệt ở Câu Thi Na; đó chính là 04 động tâm, tức 04 điểm kích động tâm chúng ta, tác động căn lành chúng ta khiến chúng ta phát tâm đến với Phật. Nếu chúng ta không phát được tâm Bồ đề, đương nhiên không thể đến với Phật, không thể hiểu Phật và không thấy Phật ). Nam Mô Tây Thiên ( Ấn Độ ), Đông Độ ( Trung Hoa ), An Nam ( Việt Nam ), Xiêm La ( Thái Lan ) Truyền Giáo Lịch Đại Tổ Sư Giác Linh. Nam Mô Pháp : + Dhammacakkappavattanasutta - Bài Kinh Chuyển Pháp Luân Nam Mô Tăng. Nam Mô Phật. Nam Mô Pháp. Nam Mô Tăng. Namo tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa. Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn ấy, Đức A Ra Hán, Đức Phật Chánh Đẳng Giác. 1. Anuttaraṃ abhisambodhiṃ, sambujjhitvā tathāgato; paṭhamaṃ yaṃ adesesi, dhammacakkaṃ anuttaraṃ. Tathāgato anuttaraṃ abhisambodhiṃ sambujjhitvā yaṃ paṭhamaṃ anuttaraṃ dhammacakkaṃ adesesi. ( Sau khi đã giác ngộ Chánh trí tối thượng, đức Như Lai đã thuyết pháp luân vô thượng lần đầu tiên. ) Sau khi đã giác ngộ, Chánh giác trí tối thượng, Thế Tôn thuyết lần đầu, Về Pháp luân tối thượng. 2. Sammadeva pavattento, loke appaṭivattiyaṃ; yathākkhātā ubho antā, paṭipatti ca majjhimā. Loke appaṭivattiyaṃ sammadeva pavattento ubho antā majjhimā paṭipatti ca yathākkhātā. ( Khi đang chuyển vận (pháp ấy) chưa từng có trên đời, ( Đức Như Lai ) đã nói về hai phần cực đoan và phương pháp Trung đạo. ) Khi chuyển vận Pháp ấy, Chưa hề có trên đời, Thế Tôn đã nói về Hai cực đoan, trung đạo. 3. Catūsvāriyasaccesu catūsu, visuddhi-ñāṇa-dassanaṃ; desitaṃ dhammarājena, sammāsambodhi-kittanaṃ. Catūsvāriyasaccesu dhammarājena desitaṃ visuddhi-ñāṇa-dassanaṃ sammāsambodhi-kittanaṃ. ( Đấng Pháp vương đã nói về tri kiến thanh tịnh trong Tứ đế, xin tán dương sự chánh giác ấy. ) Bậc Pháp vương đã thuyết, Về tri kiến thanh tịnh, Trong bốn loại Thánh đế, Xin tán dương trí ấy. 4. Nāmena vissutaṃ suttaṃ, dhammacakkappavattanaṃ; veyyākaraṇa-pāṭhena, saṅgītan-tam-bhaṇāmase. ‘Dhammacakkappavattanaṃ’ nāmena veyyākaraṇapāṭhena saṅgītaṃ vissutaṃ suttaṃ, taṃ bhaṇāmase. ( Chúng ta hãy tụng đọc bài kinh nổi tiếng được kết tập bằng đoạn kinh ký thuyết với tên gọi " Dhammacakkappavattana " . ) Chúng ta hãy tụng đọc, Kinh nổi tiếng với tên, " Sự chuyển vận Pháp luân, " Được kết tập, truyền lại, Bằng đoạn kinh ký thuyết. 5. Evamme sutaṃ. Ekaṃ samayaṃ bhagavā bārāṇasiyaṃ viharati isipatane migadāye. Tatra kho bhagavā pañcavaggiye bhikkhū āmantesi - Dveme, bhikkhave, antā pabbajitena na sevitabbā. Katame dve? Yo cāyaṃ kāmesu kāmasukhallikānuyogo hīno gammo pothujjaniko anariyo anatthasaṃhito, yo cāyaṃ attakilamathānuyogo dukkho anariyo anatthasaṃhito. Ete kho, bhikkhave, ubho ante anupagamma majjhimā paṭipadā tathāgatena abhisambuddhā cakkhukaraṇī ñāṇakaraṇī upasamāya abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṃvattati. ( Tôi đã được nghe như vầy. Một thời/thuở nọ, đức Thế Tôn trú tại Vườn Nai, ở Isipatana, trong xứ Bārāṇasī. Rồi ở đó, Thế Tôn đã gọi nhóm 5 vị tỳ-khưu: ‘Này các tỳ-khưu, có hai cực đoan này mà bậc xuất gia không nên hành theo.’ Hai (cực đoan ấy) là gì? Sự say đắm trong phiền não dục lạc, thấp hèn, thường tình, thuộc phàm phu, không thuộc Thánh nhân, không đem đến lợi ích; và sự tự hành hạ khiến đau khổ, không thuộc Thánh nhân, không đem đến lợi ích. Này các tỳ-khưu, sau khi từ bỏ hai cực đoan ấy, phương pháp Trung đạo khiến tác thành mắt, tác thành trí mà được Như Lai chánh giác (sẽ) dẫn đến sự an tịnh, thắng trí, giác ngộ, và Níp-bàn. ) 6. ‘Katamā ca sā, bhikkhave, majjhimā paṭipadā tathāgatena abhisambuddhā cakkhukaraṇī ñāṇakaraṇī upasamāya abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṃvattati? Ayameva ariyo aṭṭhaṅgiko maggo, seyyathidaṃ - sammādiṭṭhi sammāsaṅkappo sammāvācā sammākammanto sammāājīvo sammāvāyāmo sammāsati sammāsamādhi. Ayaṃ kho sā, bhikkhave, majjhimā paṭipadā tathāgatena abhisambuddhā cakkhukaraṇī ñāṇakaraṇī upasamāya abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṃvattati. ( Này các tỳ-khưu, gì là phương pháp Trung đạo ấy khiến tác thành mắt, tác thành trí mà được Như Lai chánh giác (sẽ) dẫn đến sự an tịnh, thắng trí, giác ngộ, và Níp-bàn? Chính là Thánh đạo này gồm tám phần, tức là: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, và chánh định. Này các tỳ-khưu, đây là phương pháp Trung đạo ấy khiến tác thành mắt, tác thành trí mà được Như Lai chánh giác (sẽ) dẫn đến sự an tịnh, thắng trí, giác ngộ, và Níp-bàn. ) 7. ‘Idaṃ kho pana, bhikkhave, dukkhaṃ ariyasaccaṃ - jātipi dukkhā, jarāpi dukkhā, byādhipi dukkho, maraṇampi dukkhaṃ, appiyehi sampayogo dukkho, piyehi vippayogo dukkho, yampicchaṃ na labhati, tampi dukkhaṃ - saṃkhittena pañcupādānakkhandhā dukkhā honti. Idaṃ kho pana, bhikkhave, dukkhasamudayaṃ ariyasaccaṃ - yāyaṃ taṇhā ponobbhavikā nandirāgasahagatā tatratatrābhinandinī, seyyathidaṃ - kāmataṇhā, bhavataṇhā, vibhavataṇhā. Idaṃ kho pana, bhikkhave, dukkhanirodhaṃ ariyasaccaṃ - yo tassāyeva taṇhāya asesavirāganirodho cāgo paṭinissaggo mutti anālayo. Idaṃ kho pana, bhikkhave, dukkhanirodhagāminī paṭipadā ariyasaccaṃ - ayameva ariyo aṭṭhaṅgiko maggo, seyyathidaṃ - sammādiṭṭhi sammāsaṅkappo sammāvācā sammākammanto sammāājīvo sammāvāyāmo sammāsati sammāsamādhi. ( Lại nữa, này các tỳ-khưu, đây là Thánh đế về khổ - sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, gần những vật/người đáng ghét là khổ, xa những vật/người đáng yêu là khổ, muốn cái gì mà không được thì cũng là khổ - tóm lại, năm uẩn bị chấp thủ/ngũ thủ uẩn là khổ. Lại nữa, này các tỳ-khưu, đây là Thánh đế về nhân sanh Khổ - Trong ai còn tham ái dẫn đến tái sanh, câu hỷ/khởi sanh cùng với hỷ và tham, vui thích kiếp này kiếp kia, tức là - Dục ái, hữu ái và phi hữu ái. Lại nữa, này các tỳ-khưu, đây là Thánh đế về sự diệt khổ - Ai mà có sự đoạn diệt, ly tham hoàn toàn, sự xả ly, sự dứt bỏ, sự giải thoát và sự không chấp trước đối với tham ái ấy. Lại nữa, này các tỳ-khưu, đây là Thánh đế về phương pháp dẫn đến đoạn tận khổ - Chính là Thánh đạo này gồm tám phần, tức là: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, và chánh định. ). .......
Nam Mô Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo Nam Mô Ta Bà Giáo Chủ Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật ( Mỗi người hãy tự mình thấp đuốc lên mà đi, hãy tự làm hòn đảo cho chính mình. Tin chắc rằng : Phật, Pháp, Tăng là thường trụ, Phật luôn ở trạng thái Niết Bàn “ tuyệt đối “; Phật giác ngộ là tự mình, do trí “ vô sư, chứ không hải trí hữu sư “; Phật quan sát và nhìn cuộc đời, sự vận hành của tất cả các Pháp mà giác ngộ vì “ tất cả các Pháp đều là Phật Pháp “, “ Như Lai là nghĩa các Pháp như như “; “ Tất cả chúng sinh dù hữu tình hay vô tình đều có Phật tánh “; “ Tất cả các Pháp đều vận hành theo lý “ Duyên sinh “, “ Nhân qủa “, “ Phước nghiệp “……; Khi chiêm ngưỡng tượng Phật, Chúng ta cố gắng thường hình dung Đức Phật đản sanh ở Ca Tỳ La Vệ, Phật thành đạo ở Bồ Đề Đạo Tràng, Phật thuyết pháp ở Ba La Nại và Phật nhập diệt ở Câu Thi Na; đó chính là 04 động tâm, tức 04 điểm kích động tâm chúng ta, tác động căn lành chúng ta khiến chúng ta phát tâm đến với Phật. Nếu chúng ta không phát được tâm Bồ đề, đương nhiên không thể đến với Phật, không thể hiểu Phật và không thấy Phật ). Nam Mô Thường Tịch Quang Độ Thanh Tịnh Diệu Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na Phật. Nam Mô Thập Đại Thị Giả, Tôn Giả, Thập Tam Đại Tỳ Kheo Ni, Một Ngàn Hai Trăm Năm Mươi Năm Vị Tôn Giả, Trưởng Lão, Đại Đức, Sáu Ngàn Vị Sa Di Ni, Hòa Thượng, Ni Trưởng, Sư, Thượng Tọa, Ni Sư, Đại Đức, Sư Cô, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Thức Xoa Ma Na, Sa Di, Sa Di Ni, Tứ Chúng, Tinh Xá, Đạo Tràng, Tăng Đoàn Của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Tăng Đoàn Của Các Đức Phật Khác Trong Ba Thời Qúa Khứ, Hiện Tại, Vị Lai. Nam Mô Thuyết Pháp Đệ Nhất Phú Lâu Na Ni Đa La Ni Tử ( Purnamaitrayaniputra - Punnamantaniputta ) Tôn Giả. Nam Mô Trì Giới Đệ Nhất Ưu Bà Ly ( Upali ) Tôn Giả. + Chúng con xin nguyện : “ Lấy Giới Luật Làm Thầy - Nghiêm Trì Giới Luật “ Nam Mô Giải Không Đệ Nhất Tu Bồ Đề ( Subhuti ) Tôn Giả. + Chúng con cố gắng giữ cho Thân, Khẩu, Ý được thanh tịnh, tỉnh thức trong từng sát na, hơi thở. Nam Mô Luận Nghị ( Hùng Biện ) Đệ Nhất Đại Ca Chiên Diên ( Mahā Kaccāna, Maha Kaccayana, Katyayana ) Tôn Giả. Nam Mô Phúc Lành Đầu Tiên ( s, p : Piṇḍola - Bharadvāja, 賓頭盧頗羅墮 ), Phúc Điền Đệ Nhất ) Tân Đầu Lô Phả La Đọa Xà ( Tân Đầu Lô Phả La Đọa Thệ ( 賓頭盧頗羅墮誓 ), Phả La Đọa ( s : Bharadvāja, 頗羅墮 ), Tân Đầu Lô ( 賓頭盧 ) hay Tân Đầu ( 賓頭 ); Trường Mi Tăng ( 長眉僧 ) hay Trường Mi Sa Môn ( 長眉沙門 ) ). Nam Mô Thần Thông Đệ Nhất Đại Mục Kiền Liên ( Mahà Moggallàna ) Tôn Giả. Nam Mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên ( Mahà Moggallàna ) Bồ Tát. ( ……Dù Cha ra sao vẫn luôn là đấng sinh thành - Dù Mẹ làm sao cũng luôn mang nặng đẻ đau ……). Nam Mô Pháp : Nhất tâm đảnh lễ : Chúng con nguyện y giáo phụng hành : Nam Mô Tăng. Nam Mô Phật. Nam Mô Pháp. Nam Mô Tăng. …… “ Hương các loại hoa thơm, Không ngược bay chiều gió, Nhưng hương người đức hạnh, Ngược gió khắp tung bay. Chỉ có bậc chân nhân, Tỏa khắp mọi phương trời. “ “ Hoa chiên đàn, già la; Hoa sen, hoa vũ quý; Giữa những hương hoa ấy; Giới hương là vô thượng “ “ Ít giá trị hương này; Hương già la, chiên đàn; Chỉ hương người đức hạnh; Tối thượng tỏa Thiên giới.” …… + Thập Lục A La Hán, La Hán ( 16 vị A La Hán : là những bậc : “Bậc đáng được tôn kính”, hay còn gọi là “Tôn giả” ý nói bậc đầy đủ cả tánh đức và trí tuệ : Sát tặc, Ứng cúng, Bất sanh. Tên Các Vị A La Hán đó là Các Ngài : 1 / Tân Đầu Lô Phả Đọa ( Pindolabharadvaja, A La Hán Tọa Lộc, A La Hán Cỡi Hươu ), xuất thân dòng Bà La Môn, là một đại thần danh tiếng của vua Ưu Điền. Theo Pháp Trụ Ký, xếp Ngài là vị A La Hán thứ nhất, thường cùng 1.000 vị A La Hán trụ ở Tây Ngưu Hóa Châu. 2 / Ca Nặc Ca Phạt Tha ( Kanakavatsa, A La Hán Hỷ Khánh ), còn gọi là Yết Nặc Ca Phược Sa. Theo Pháp Trụ Ký, Ngài là vị A La Hán thứ hai, thường cùng 500 vị A La Hán trụ tại nước Ca Thấp Di La ( Kashmir ). 3 / Ca Nặc Ca Bạt Ly Đọa Xà ( Kanakabharadvaja, A La Hán Cử Bát ). Ngài là vị Đại đệ tử được đức Phật giao phó giáo hóa vùng Đông Thắng Thần Châu. Theo Pháp Trụ Ký ngài là vị A La Hán thứ ba, thường cùng 600 vị A La Hán trú tại Đông Thắng Thần Châu. 4 / Tô Tần Đà ( Subinda, A La Hán Thác Tháp ). Theo Pháp Trụ Ký, ngài là vị A La Hán thứ tư, thường cùng 700 vị A La Hán phần nhiều trụ ở Bắc Câu Lô Châu. 5 / Nặc Cù La ( Nakula, A La Hán Tĩnh Tọa ). Theo Pháp Trụ Ký, Tôn giả Nặc Cù La được xếp vào vị trí A La Hán thứ năm, Ngài thường cùng 800 vị A La Hán trụ ở Nam Thiện Bộ Châu. 6 / Bạt Đà La ( Bhadra, A La Hán Qúa Giang ). Bạt Đà La còn gọi là Hiền, vì mẹ Ngài hạ sanh Ngài dưới cây Bạt Đà, tức là cây Hiền. Theo Pháp Trụ Ký, Ngài là vị A La Hán thứ sáu, thường cùng 900 vị A La Hán trụ tại Đam Một La Châu. 7 / Ca Lý Ca ( Kalica, A La Hán Kỵ Tượng ), trước khi xuất gia làm nghề huấn luyện voi. Theo Pháp Trụ Ký, Tôn giả Ca Lý Ca là vị A La Hán thứ bảy, cùng với 1.000 vị A La Hán luôn thường trụ tại Tăng Già Trà Châu ( Tích Lan ). 8 / Phạt Xà La Phất Đa La ( Vajraputra, A La Hán Tiểu Sư, A La Hán Đùa Sư Tử ). Theo Pháp Trụ Ký. Ngài là vị A La Hán thứ tám, thường cùng 1.100 vị A La Hán trụ ở châu Bát Thích Noa. 9 / Thú Bác Ca ( Jivaka, A La Hán Khai Tâm ). Theo Pháp Trụ Ký, Ngài Thú Bác Ca là vị A La Hán thứ chín, thường cùng 900 vị A La Hán trụ trong núi Hương Túy. 10 / Bán Thác Ca ( Panthaka, A La Hán Thám Thủ, Đại Lộ Biên Sanh, Ngài là anh của Tôn giả Châu Lợi Bàn Đặc ). Theo Pháp Trụ Ký, Tôn giả Bán Thác Ca là vị A La Hán thứ mười, Ngài thường cùng 1.100 vị A La Hán trụ ở Tất Lợi Dương Cù Châu. 11 / La Hầu La ( Rahula, A La Hán Trầm Tư ). Ngài là một trong Thập Đại Đệ Tử Của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngài là Mật Hạnh Đệ Nhất. Theo Pháp Trụ Ký, Ngài là vị A La Hán thứ mười một, thường cùng 1.100 vị A La Hán trụ ở Tất Lợi Dương Cù Châu. 12 / Na Già Tê Na ( Nagasena, Na Tiên, A La Hán Khoái Nhĩ ). Ngài sinh trưởng ở miền bắc Ấn Độ. Theo Pháp Trụ Ký, Ngài cũng là vị A La Hán thứ mười hai, thường cùng 1.200 vị A La Hán trụ trong núi Bán Độ Ba. 13 / Nhân Yết Đà ( Nhân Kiệt Đà, Angada, A La Hán Bố Đại ). Theo Pháp Trụ Ký, Ngài là vị A La Hán thứ mười ba, thường cùng 1.300 vị A La Hán trụ trong núi Quảng Hiếp. 14 / Phạt Na Bà Tư ( Vanavàsin, A La Hán Ba Tiêu ). Theo Pháp Trụ Ký, tôn giả Phạt Na Bà Tư là vị A La Hán thứ mười bốn, ngài và 1.400 vị A La Hán thường ở trong núi Khả Trụ. 15 / A Thị Đa ( Ajita, A La Hán Trường Mi ). Ngài thuộc dòng Bà La Môn nước Xá Vệ. Pháp Trụ Ký xếp Ngài là vị A La Hán thứ mười lăm, thường cùng 1.500 A La Hán trụ trong Linh Thứu Sơn. 16 / Chú Trà Bán Thác Ca ( Châu Lợi Bàn Đặc, Cullapatka, A La Hán Kháng Môn ). Ngài như một tấm gương cần cù nhẫn nại. Theo Pháp Trụ Ký, Tôn giả là vị A La Hán thứ mười sáu, cùng với 1.600 vị A La Hán thưòng trụ tại núi Trì Trục. Ngoài ra, còn có hai vị A La Hán khác ( thường gọi chung là Thập Bát A La Hán ) : 17 / Nan Đề Mật Đa La ( Nandimitra , Khánh Hữu, A La Hán Hàng Long ). Ngài ra đời sau Phật diệt độ 800 năm, cư trú tại nước Sư Tử. Tôn giả Nan Đề Mật Đa La là vị A La Hán thứ 17, do mọi người tưởng nhớ công ơn ngài nói ra Pháp Trụ Ký. 18 / Đạt Ma Đa La ( Dharmatrata, A La Hán Phục Hổ ). Ngài ở núi Hạ Lan tỉnh Cam Túc. ......
Nam Mô Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo Nam Mô Ta Bà Giáo Chủ Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật ( Mỗi người hãy tự mình thấp đuốc lên mà đi, hãy tự làm hòn đảo cho chính mình. Tin chắc rằng : Phật, Pháp, Tăng là thường trụ, Phật luôn ở trạng thái Niết Bàn “ tuyệt đối “; Phật giác ngộ là tự mình, do trí “ vô sư, chứ không hải trí hữu sư “; Phật quan sát và nhìn cuộc đời, sự vận hành của tất cả các Pháp mà giác ngộ vì “ tất cả các Pháp đều là Phật Pháp “, “ Như Lai là nghĩa các Pháp như như “; “ Tất cả chúng sinh dù hữu tình hay vô tình đều có Phật tánh “; “ Tất cả các Pháp đều vận hành theo lý “ Duyên sinh “, “ Nhân qủa “, “ Phước nghiệp “……; Khi chiêm ngưỡng tượng Phật, Chúng ta cố gắng thường hình dung Đức Phật đản sanh ở Ca Tỳ La Vệ, Phật thành đạo ở Bồ Đề Đạo Tràng, Phật thuyết pháp ở Ba La Nại và Phật nhập diệt ở Câu Thi Na; đó chính là 04 động tâm, tức 04 điểm kích động tâm chúng ta, tác động căn lành chúng ta khiến chúng ta phát tâm đến với Phật. Nếu chúng ta không phát được tâm Bồ đề, đương nhiên không thể đến với Phật, không thể hiểu Phật và không thấy Phật ). Nam Mô Thường Tịch Quang Độ Thanh Tịnh Diệu Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na Phật. Nam Mô Thập Đại Thị Giả, Tôn Giả, Thập Tam Đại Tỳ Kheo Ni, Một Ngàn Hai Trăm Năm Mươi Năm Vị Tôn Giả, Trưởng Lão, Đại Đức, Sáu Ngàn Vị Sa Di Ni, Hòa Thượng, Ni Trưởng, Sư, Thượng Tọa, Ni Sư, Đại Đức, Sư Cô, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Thức Xoa Ma Na, Sa Di, Sa Di Ni, Tứ Chúng, Tinh Xá, Đạo Tràng, Tăng Đoàn Của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Tăng Đoàn Của Các Đức Phật Khác Trong Ba Thời Qúa Khứ, Hiện Tại, Vị Lai. Nam Mô Thuyết Pháp Đệ Nhất Phú Lâu Na Ni Đa La Ni Tử ( Purnamaitrayaniputra - Punnamantaniputta ) Tôn Giả. Nam Mô Trì Giới Đệ Nhất Ưu Bà Ly ( Upali ) Tôn Giả. + Chúng con xin nguyện : “ Lấy Giới Luật Làm Thầy - Nghiêm Trì Giới Luật “ Nam Mô Giải Không Đệ Nhất Tu Bồ Đề ( Subhuti ) Tôn Giả. + Chúng con cố gắng giữ cho Thân, Khẩu, Ý được thanh tịnh, tỉnh thức trong từng sát na, hơi thở. Nam Mô Luận Nghị ( Hùng Biện ) Đệ Nhất Đại Ca Chiên Diên ( Mahā Kaccāna, Maha Kaccayana, Katyayana ) Tôn Giả. Nam Mô Thần Thông Đệ Nhất Đại Mục Kiền Liên ( Mahà Moggallàna ) Tôn Giả. Nam Mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên ( Mahà Moggallàna ) Bồ Tát. ( ……Dù Cha ra sao vẫn luôn là đấng sinh thành - Dù Mẹ làm sao cũng luôn mang nặng đẻ đau ……). Nam Mô Tây Thiên ( Ấn Độ ), Đông Độ ( Trung Hoa ), An Nam ( Việt Nam ), Xiêm La ( Thái Lan ) Truyền Giáo Lịch Đại Tổ Sư Giác Linh. Nam Mô Pháp : Nhất tâm đảnh lễ : Chúng con nguyện y giáo phụng hành : + Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo : ( đoạn 1 ) : Nam Mô Tăng. Nam Mô Phật. Nam Mô Pháp. Nam Mô Tăng. Chúng con thành tâm tri ân công đức của Ngài Thái Hư Pháp Sư ( Giảng tại Hội Phật Giáo Chánh Tín ở Hán Khẩu - Trung Hoa ); Ngài Đại Sư Thật Xoa Nan Đà; Thầy Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Thượng Trí Hạ Thủ; Thầy Đại Lão Hòa Thượng Thượng Tâm Hạ Châu và Các Qúy Tôn Đức Khác : Chương I Nghiệp Quả Thế Gian và Xuất Thế Gian Chia làm năm đoạn 1) Từ nơi nhơn mà nói đến quả : Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Long vương rằng : " Tất cả chúng sanh vì tâm tưởng khác nhau nên tạo nghiệp khác nhau, do vậy có sự xoay vần trong các thú " Bấy giờ là chỉ thời gian thuyết pháp. Thế Tôn là chỉ đức Phật, ở đời ai cũng tôn trọng nên gọi là Thế Tôn. Long Vương tức chỉ vị chúa tể ở Long cung, Phật kêu Long vương mà bảo. Tâm là tâm vương, Tưởng là 51 món tâm sở; Tâm vương, Tâm sở của chúng sanh ở trong tam giới cửu địa, năm thú, bốn loài sanh v.v... không đồng nhau, nên hành vi cũng không đồng, và chịu quả báo cũng không đồng. Cũng như vì nhân tâm không đồng nên bộ mặt chẳng ai giống ai; đây là hợp cả tâm vương và tâm sở, tóm tắt gọi là tâm; nếu phân biệt mà nói thì phải nói tâm và tưởng v.v. mới đủ. Ta nên biết: thân hành động, miệng nói phô, ý suy nghĩ, toàn là do tâm chủ động. Nên người ta nói : Có ở trong tức là hiện ra ở ngoài. Nếu hành động mà không có dụng công của tâm thời không thành thiện ác; các nhà luân lý học cũng thừa nhận như thế. Nhân vì tâm tưởng không đồng nên hành vi tạo tác không đồng, thành thử có nghiệp quả xoay vần trong năm thú. Sao gọi là Xoay Vần ? Nghĩa là loài người tạo nghiệp lành thì sanh lên cõi trời; tạo nghiệp dữ thì đọa xuống địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh v.v… Nghiệp địa ngục súc sanh hết, nhờ tu thiện, trở lại sanh làm người, làm người nếu không tu thiện, trở lại đọa lạc; cứ thế xoay chuyển mãi, nên gọi là Xoay Vần. Theo từ ngữ của Phật tức là luân hồi. Đoạn này là từ nơi "nhơn" mà nói rõ " quả báo " vậy. 2) Từ nơi " quả " mà nói rõ " nhơn " : Này Long vương ! Nhà ngươi có thấy trong hội này và các loài ở trong đại hải hình sắc chủng loại mỗi mỗi không đồng nhau không ? Tất cả đều do tâm tạo thiện hay ác của thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp mà gây nên cả. Trước hết, Phật kêu Long vương khiến chăm chú nghe. Các loài tôm cá ở trong biển hình sắc chủng loại không đồng, quả báo cũng không đồng, toàn do tâm tưởng và hành vi không đồng gây nên. Chỗ xuất hiện của hành vi là thân, khẩu và ý đều có thiện hay ác, nên thành sai biệt. Đoạn này là dẫn " quả " để nói về " nhân ". 3 ) Nói Rõ Về Tướng Của Nhân : A ) Quán Tâm Là Vô Sanh : Tâm ấy không có hình sắc, không thể thấy được, chỉ là do các pháp nhóm họp hư huyễn không thật, rốt ráo không có chủ tể, không có ngã và ngã sở. Tâm chỉ có danh từ mà không có hình sắc, mắt không thể nhìn được, tay không thể nắm được, chỉ vì vô thỉ đến nay gom góp các pháp hư huyển mà sanh khởi sự phân biệt, huân thành chủng tử, rồi khởi ra hiện hạnh. Ba cõi này đều là do phân biệt giả dối mà hiện khởi ra cả, rốt ráo không có chủ tể, không thể chỉ cái gì là " ngã " [ ta ] và " ngã sở " [ vật của ta ]. Nếu ai chấp tâm ấy có chủ tể tức thuộc về tà kiến đoạn thường của ngoại đạo. B ) Quán Pháp Như Huyễn : Tuy đều theo nghiệp, hiện ra không đồng; mà thật trong ấy không có người tác giả, nên tất cả các pháp, tự tánh như huyễn, đều là bất khả tư nghì. Các pháp giả dối tức là chỉ cho các pháp tạo thành thân căn và khí giới như năm uẩn, bốn đại v.v. Các pháp ấy nhứt định không ai tạo thành, chỉ do nghiệp lực hiển hiện mà thôi; nghiệp lại do tâm tạo, tâm lại do các pháp mà sanh khởi, lần lữa nương nhau như huyễn, như hóa, sanh diệt vô thường, không có gì là chắc chắn trường tồn; vì không thể dùng tư tưởng nghị luận mà suy cứu, nên gọi là bất tư nghì. Ngày xưa có ngoại đạo chấp rằng : Vạn vật do vị Đại tự tại thiên tạo thành, ngày nay thì Gia giáo cũng cho rằng : Tất cả đều do Thượng đế tạo thành và làm chúa tể. Đối với Phật giáo, nói như thế là vọng chấp sai lầm. Đạo Phật nói rằng : Tất cả quả báo khổ hay vui đều do sự sai khác của mười nghiệp thiện hay không thiện mà thôi, nhưng phải biết tự tánh của nghiệp quả là như huyễn, vì do nhân duyên cấu hợp sanh diệt vô thường. Tức như kinh Bát nhã nói về Chơn Không, Pháp tướng duy thức nói về Giả Hữu, thật là bao trùm không sót vậy. ......
A Di Đà Phật
A Di Đà Phật .
Dạ sư phụ. A Di Đà Phật!
A DI ĐÀ PHẬT !
Lòng thành đệ tử xin cầu
Nhờ ơn đức Phật cứu ân tai nàn
Vì trong bá tánh chẳng an
Nương kinh công đức lập đàn Dược Sư
Nguyên do biển khổ bây chầy
Thảm thương dân chúng quá ư đau lòng
Chẳng nài có của cùng không
Ngày đêm lạy Phật ra công khẩn cầu
Cầu cho khắp cả đâu đâu......
Nhân nhân xứ xứ bớt sầu bớt lo
Nhà nhà ăn mặt ấm no
Hưởng phần vui vẻ đồng lo tu hành
Biết đời diệt diệt sanh sanh
Có không không có như cành đổi thay
Khác nào như gió như mây
Như sương như điện hiện nay rõ ràng
Đó là lẽ sự thế gian
Mau mau tránh khỏi tìm đàng dời chân
Nguyện cho chánh pháp vô dư
Hoàn toàn dứt khổ đồng như Phật đà
Phân thân qua cõi Ta Bà
Từ bi tiếp độ những là chúng sanh
Nguyện cho bá tánh tu hành
Đồng về Cực Lạc đồng sanh sen vàng
Lênh đênh qua cõi Diêm Phù
Khéo tu thì nỗi vụng tu thì chìm.
Nam Mô Đông Phương Giáo Chủ Tiêu Tai Diên Thọ Tịnh Lưu Ly Thế Giới Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật.
Nam Mô Ta Bà Giáo Chủ Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Làm xong được chút phước lành
Con xin hồi hướng chúng sanh hưởng nhờ.
Mênh mông biển khổ không bờ
Trần gian chìm đắm mịt mờ tối đen,
Bỗng đâu núi báu hiện lên
Tháp vàng rực rỡ vượt trên cao vời,
Cơ duyên Chánh pháp ra đời
Lối tu tối thượng độ người trầm mê,
Tinh thần nẻo thẳng cao xuê
Mà đường vật chất thấp nê bùn lầy,
Càng buông bỏ dưới chân này
Ấy là chỗ đứng càng ngày càng cao,
Nhiều người chung sức với nhau
Công phu tứ chúng góp vào điểm tô
Đạo vàng cao quý bày phô
Cũng vì lợi ích chung cho thế trần,
Hôm nay con mới góp phần
Nguyện xin tất cả xa gần hưởng chung,
Mỗi người học đạo tỏ thông
Chư Tăng Khất sĩ ra công thuyết bài,
Cầu xin Giáo pháp hoằng khai
Được thường tỏ sáng lại hay thơm lành,
Nguyện cho đạo đức thạnh hành
Cảnh đời Đông Độ đổi thành Tây Phương…
Nam Mô Ta Bà Giáo Chủ Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nguyện ngày an lành, đêm an lành,
Đêm ngày sáu thời đều an lành,
Tất cả các thời đều an lành,
Xin đấng Từ Bi thường gia hộ.
Nguyện ngày an lành, đêm an lành,
Đêm ngày sáu thời đều an lành,
Tất cả các thời đều an lành,
Xin nguyện Tam Bảo thường gia hộ
Nguyện ngày an lành, đêm an lành,
Đêm ngày sáu thời đều an lành,
Tất cả các thời đều an lành,
Xin nguyện Hộ Pháp thường gia hộ.
Nam Mô Tiêu Tai Giáng Kiết Tường Bồ Tát Ma Ha Tát.
Tội từ tâm khởi, đem tâm sám, Tâm được tịnh rồi, tội liền tiêu; Tội tiêu, tâm tịnh thảy đều không, Thế mới thật là chân sám hối.
( Tội do tâm sanh, do tâm diệt. Tâm đã diệt, tội cũng không còn. Tội hết tâm không hai vắng lặng. Như thế mới là chân sám hối.)
Nam Mô Ta Bà Giáo Chủ Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Từ xưa con đã tạo nghiệp xấu. Vì tham, sân, si từ vô thỉ. Do thân, miệng, ý mà phát sinh. Nay con đều sám hối tất cả.
Nam Mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát.
".....Nầy Tu - Bồ - Đề !, vì thế các vị đại Bồ Tát, phải nên sanh tâm thanh tịnh như vầy : chẳng nên trụ trước nơi sắc mà sanh tâm, chẳng nên trụ trước nơi thanh, hương, vị, xúc và pháp, mà sanh tâm, nên " không - chổ - trụ - trước " mà sanh tâm thanh tịnh kia......" ( Therefore, Subhuti, all Bodhisattvas, lesser and great, should develop a pure, lucid mind, not depending upon sound, flavor, touch, odor, or any quality. A Bodhisattva should develop a mind which alights upon no thing whatsoever; and so should he establish it. )
“……Cũng bởi nghĩa đó, Như Lai thường dạy rằng: “Nầy, các Tỳ kheo, các ông phải biết rằng, pháp của Ta nói ra đó, dụ cũng như thuyền bè, đến pháp còn phải xả bỏ, huống nữa là phi pháp !” ( This is the reason why the Tathagata always teaches this saying: My teaching of the Good Law is to be likened unto a raft. [ Does a man who has safely crossed a flood upon a raft continue his journey carrying that raft upon his head?] The Buddha teaching must be relinquished; how much more so mis teaching ! )
“……Bởi vì sao? Vì rời lìa tất cả tướng, chính đó gọi là chư Phật”. ( Why ? Consequently those who have left behind every phenomenal distinction are called Buddhas all. )
“……Nầy Tu Bồ Đề! Tâm quá khứ không có chi mà được, tâm hiện tại không có chi mà được, tâm vị lai không có chi mà được.“ ( Subhuti, it is impossible to retain past mind, impossible to hold on to present mind, and impossible to grasp future mind. )
“……Bởi vì sao? Vì Như Lai đó, không từ nơi nào lại, mà cũng không đi về đâu, nên gọi là Như Lai......” ( Why? Because Tathagata has neither whence nor whither, therefore is He called "Tathagata". )
“…..Nhược dĩ sắc kiến ngã, Dĩ âm thanh cầu ngã, Thị nhân hành tà đạo, Bất năng kiến Như Lai…..”
( Nếu do sắc thấy ta, Do âm thanh cầu ta, Người ấy hành đạo tà, Không thể thấy Như Lai.)
( Who sees Me by form, Who seeks Me in sound, Perverted are his footsteps upon the Way, For he cannot perceive the
Tathagata. )
“…..Tất cả những pháp hữu vi. Khác nào mộng, huyễn, khác gì điện, sương. Như bóng nước, như ảnh tượng. Xét suy như thế cho thường chớ quên!.....” ( Thus shall ye think of all this fleeting world. A star at dawn, a bubble in a stream. A flash of lightning in a summer cloud. A flickering lamp, a phantom, and a dream. )
Hận thù diệt hận thù, đời này không có được. Từ bi diệt hận thù, là định luật thiên thu.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Cư trần lạc đạo thả tùy duyên ( 居 塵 樂 道 且 隨 緣 )
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên ( 饑 則 飧 兮 困則 眠 )
Gia trung hữu bảo hưu tầm mích ( 家 中 有 宝 休寻 覓 )
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền. ( 对 鏡 無 心 莫問 禪 )
( Ở đời vui đạo hãy tùy duyên
Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền
Trong nhà có báu thôi tìm kiếm
Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền )
Bồ đề bổn vô thọ ( 菩 提 本 無 樹 ) ( There is no Bodhi tree )
Minh kính diệc phi đài ( 明 鏡 亦 非 臺 ) ( Nor stand of a mirror bright )
Bổn lai vô nhất vật ( 本 來 無 一 物 ) ( Since all is Void )
Hạ xứ nhạ trần ai ?. ( 何 處 惹 塵 埃 ) ( Where can the dust alight ? )
Thân như cây bồ đề ( 身 是 菩 提 樹 ) ( Our body is the Bodhi tree )
Tâm như đài gương sáng ( 心 如 明 鏡 臺 ) ( And our mind a mirror bright )
Thường ngày phải lau chùi ( 時 時 勤 拂 拭 ) ( Carefully we wipe them hour by hour )
Chớ dính các bụi nhơ ( 勿 使 惹 塵 埃 ) ( And let no dust alight )
.......
Trần lao quýnh thoát sự phi thường, ( 塵勞迥脫事非常, )
Khẩn bã thằng đầu tố nhất trường, ( 緊把繩頭做一場; )
Bất thị nhất phiên hàn triệt cốt, ( 不是一番寒徹骨, )
Tranh đắc mai hoa phốc tỷ hương ? ( 爭得梅花撲鼻香? )
Việt dịch :
Vượt khỏi trần lao việc chẳng thường,
Nắm chặt đầu dây giữ lập trường,
Chẳng phải một phen xương lạnh buốt,
Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương ?. ( Bài kệ Hoa Mơ đâu dễ ngát mùi hương - Tổ Hoàng Bá Hy Vận - Tỳ Kheo Thích Thiện Trí ).
…….
Xuân khứ bách hoa lạc, ( 春去百花落 )
Xuân đáo bách hoa khai. ( 春到百花開 )
Sự trục nhãn tiền quá, ( 事逐眼前過 )
Lão tùng đầu thượng lai. ( 老從頭上來 )
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận, ( 莫謂春殘花落盡 )
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai. ( 庭前昨夜一枝梅 )
Việt Dịch Nghĩa :
Xuân đi, trăm hoa rụng,
Xuân đến, trăm hoa nở.
Việc đời theo nhau ruổi qua trước mắt,
Tuổi già hiện đến từ trên mái đầu.
Đừng cho rằng xuân tàn thì hoa rụng hết,
Đêm qua, một cành mai đã nở trước sân. ( Bài kệ : Cáo Tật Thị Chúng - 告疾示眾 - Thiền Sư Mãn Giác - Lâm Trung Phú dịch ) :
……
Đã mang lấy nghiệp vào thân
Thì đừng trách lẫn trời gần trời xa
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài
.............
Có trời mà cũng có ta. Tu là cội phúc, tình là dây oan.
……
Thế sự đua nhau nói khổ vui
Có chi là khổ có chi vui
Vui trong tham dục vui rồi khổ
Khổ để tu hành khổ hóa vui.
Nếu biết có vui rồi có khổ
Thà rằng đừng khổ cũng đừng vui
Mong sao giữ mãi đừng vui khổ
Mới thoát ra ngoài cái khổ vui.
……
Kinh không chữ mới thật là chân kinh.
……
Trường Giang cuồn cuộn chảy về đông
Bạc đầu ngọn sóng cuốn anh hùng
Thị phi thành bại theo dòng nước
Sừng sững cơ đồ bỗng tay không.
……
Đốt nén tâm hương trước Phật đài,
Ngũ phần dâng trọn Đức Như Lai,
Cầu xin nhân loại lên bờ giác,
Hạnh phúc bình an khắp muôn loài.
Đốt nén tâm hương cúng Phật đà,
Lòng thành gửi tận chốn bao la.
Cầu xin Tam Bảo thường gia hộ,
Đạo pháp hoằng thông khắp mọi nhà.
Đốt nến tâm hương ở Ta Bà,
Nhớ lời di huấn Đức Thích Ca.
Cầu xin Bồ Tát Tùng Địa Xuất,
Thầm giúp cho người tụng Pháp Hoa.
Tâm Thế Tôn mảy trần không bợn,
Thân của Ngài vô tận phước lành.
Từ bi, cứu khổ, độ sanh,
Chúng con đảnh lễ, chí thành quy y.
Nam Mô Ta Bà Giáo Chủ Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Hơn sáu muôn lời thành bảy cuốn
Chứa đựng vô biên nghĩa nhiệm mầu
Trong cổ nước cam lộ rịn nhuần
Trong miệng nước đề hồ nhỏ mát
Bên răng ngọc trắng tuôn xá lợi
Trên lưỡi sen hồng phóng hào quang
Dầu cho tạo tội hơn núi cả
Chẳng nhọc Diệu Pháp vài ba hàng.
( Lục vạn dư ngôn thất trục trang.
Vô biên diệu nghĩa quảng hàm tàng.
Hầu trung cam lộ quyên quyên nhuận.
Khẩu nội đề hồ trích trích lương.
Bạch ngọc xỉ biên lưu xá lợi
Hồng liên thiệt thượng phóng hào quang
Giả nhiêu tạo tội quá sơn nhạc
Bất tu Diệu Pháp lưỡng tam hàng. )
Nam Mô Pháp Hoa Hội Thượng Phật Bồ Tát Ma Ha Tát.
Phật Pháp và Cuộc Sống : Tất cả các Pháp đều là Phật Pháp : ( đoạn 116 ) :
336 / Hiểu đúng về “ xả bỏ ham muốn ”
Theo Phật giáo, ham muốn (tham lam, tham ái, tham dục, dục vọng) là phiền não căn bản tồn tại trong tất cả mọi người. Tham ái và vô minh chính là cội nguồn của mọi tranh chấp, khổ đau. Vì lòng tham vốn vô hạn, dục vọng không có điểm dừng nên Phật giáo dạy người phát huy tỉnh thức để chuyển hóa, giảm thiểu và buông xả bớt ham muốn nhằm thiết lập bình an, lợi mình và ích người. Xả ly toàn bộ ham muốn vị kỷ chính là bậc Thánh A-la-hán, hoàn toàn giải thoát sinh tử, khổ đau.
Vì bản chất của con người là tham-ái-dục nên xả bỏ ham muốn hoàn toàn (ly tham, đoạn tham) là ước vọng, là cứu cánh, còn sống trong đời thường giảm thiểu ham muốn đã là quý hóa lắm rồi. Nói cụ thể, mục tiêu của người Phật tử là buông xả bớt ham muốn, không bo bo vị kỷ, sống san sẻ vị tha để mình và người đều lợi ích, an vui. Nên phải xác định ly tham là mục tiêu sau cùng, bớt tham là mục tiêu hiện tại.
Ham muốn thì vô cùng, phân loại thì có tham ngũ dục (tiền bạc, sắc đẹp, danh tiếng, ăn uống, ngủ nghỉ), đắm lục trần (đối tượng của sáu giác quan: sắc- cảnh đẹp, thanh- tiếng hay, hương- mùi thơm, vị- ngon ngọt, xúc- êm ái, pháp- những đối tượng của tâm ý). Dĩ nhiên khó có thể đạt được những tham muốn này, thường thì được cái này lại mất cái kia, dù sao thỏa mãn các tham muốn vẫn là hạnh phúc của thế thường. Thực tiễn đời sống phải có ngũ dục (không có là nguy), phải có đời sống dễ chịu (lục trần, ngoại cảnh không chướng nghịch) nhưng quá tham đắm lại là điều không tốt, nhiều mong cầu sẽ phiền não khổ đau.
Thế nên, người Phật tử cũng có mong muốn chính đáng như sức khỏe, bình an, hạnh phúc; mong muốn đầy đủ phước báo để lợi mình và lợi người. Thực tập buông bớt tham đắm, người Phật tử lập hạnh muốn ít và biết đủ (thiểu dục và tri túc). Muốn ít là vì biết nghĩ đến người, mong muốn được sẻ chia với người nên không gom hết cho mình. Biết đủ là không quá tham cầu, chấp nhận thực tiễn, vui với những gì mình đang có (vì muốn nhiều hơn chưa hẳn đã được mà càng nặng nề, bận tâm thêm).
Cần phải thấy rõ, các duyên bên ngoài (có vật chất, ngũ dục) chỉ là những điều kiện cần, bình an trong tâm mới là điều kiện đủ cho hạnh phúc, cho chất lượng cuộc sống. Chạy theo ngũ dục mà đánh mất bình an bản thân và gia đình là một sự trả giá quá đắt, một sự thiếu trí tuệ. Cho nên, người Phật tử lập hạnh muốn ít và biết đủ không phải là sự thụ động, kìm hãm sự phát triển kinh tế của bản thân và xã hội mà đó chính là thiết lập sự thăng bằng giữa phát triển vật chất và tinh thần, hài hòa giữa sự thành đạt và bình an.
337 / Muốn tự học Phật nên bắt đầu từ đâu?
Đạo Phật trên thế giới hiện có hai truyền thống lớn, đó là Phật giáo Nam tông (Nguyên thủy) và Phật giáo Bắc tông (Phát triển). Trong mỗi truyền thống lại có nhiều tông phái khác nhau. Về căn bản lịch sử và giáo lý, các truyền thống và tông phái Phật giáo đều giống nhau, song bên cạnh đó cũng có một số khác biệt.
Đặc điểm của Phật giáo Việt Nam là dung hội cả hai truyền thống Phật giáo lớn của thế giới với nhiều tông phái, hệ phái khác nhau. Trước thực tiễn kinh sách Phật học và văn hóa Phật giáo vô cùng phong phú, đa dạng như hiện nay, người tự tìm hiểu Phật pháp sẽ lúng túng và mất thời gian nếu không được định hướng đúng đắn.
Để tự tìm hiểu, nghiên cứu Phật pháp, thiển nghĩ trước nên tiếp cận từ lịch sử, giáo lý, sau mới đến văn hóa và các phương diện khác của Phật giáo.
Về lịch sử Phật giáo, bạn có thể bắt đầu với sách Đức Phật lịch sử của Schumenn ( Trần Phương Lan dịch ), sách Đức Phật Gotama của Hajime Nakamura ( Trần Phương Lan dịch ). Đây là hai biên khảo tiêu biểu về lịch sử Đức Phật dựa vào văn bản học và khảo cổ học có uy tín trên thế giới. Bạn có thể tìm hiểu cuộc đời Đức Phật một cách thi vị hơn qua sách Đường xưa mây trắng của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.
Ngoài ra, bạn nên tìm hiểu thêm về Phật giáo Việt Nam qua sách Lịch sử Phật giáo Việt Nam của Lê Mạnh Thát và sách Việt Nam Phật giáo sử luận của Nguyễn Lang ( bút hiệu của Thiền sư Thích Nhất Hạnh ).
Về giáo lý căn bản, thiển nghĩ bạn nên đọc sách Đức Phật và Phật pháp của Trưởng lão Narada ( Phạm Kim Khánh dịch ), sách Trái tim của Bụt của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, sách Phật học phổ thông của Hòa thượng Thích Thiện Hoa, sách Phật học cơ bản ( Giáo trình do Ban Hoằng pháp Trung ương soạn ).
Đặc biệt, nếu hội đủ duyên lành bạn nên đọc thẳng vào kinh tạng, Kinh tạng Nikaya ( gồm kinh Trường bộ, kinh Trung bộ, kinh Tương ưng bộ, kinh Tăng chi bộ, kinh Tiểu bộ ) và Kinh tạng A Hàm ( gồm kinh Trường A Hàm, kinh Trung A Hàm, kinh Tăng nhất A Hàm, kinh Tạp A Hàm ). Tất cả giáo lý căn bản, bao gồm cả pháp học lẫn pháp hành đều nằm trọn trong hai bộ kinh này. Về sau, tùy nhân duyên bạn có thể tìm hiểu thêm Luận tạng, kinh Đại thừa, các Sớ chú giải…
Sách chuyên khảo về văn hóa Phật giáo từ Ấn Độ, Trung Quốc, Việt Nam… hiện có rất nhiều, bạn cứ tùy duyên tham khảo.
Về thông tin, bạn có thể đọc và xem tin tức Phật giáo trên Giác Ngộ online ( giacngo.vn ) - Cơ quan ngôn luận của GHPGVN TP.HCM, phatgiao.org.vn - Cổng thông tin điện tử của Ban Thông tin - Truyền thông Trung ương; Phật sự online ( phatsuonline.com ) - Cổng thông tin Văn phòng Trung ương GHPGVN. Ngoài ra, thuvienhoasen.org ( do cư sĩ Tâm Diệu chủ trương ở nước ngoài ) cũng đăng tải khá nhiều kinh sách, các bài khảo luận, nghiên cứu Phật học với nhiều thể loại. Còn nhiều trang mạng Phật giáo khác nữa chuyên sâu về giáo lý và pháp hành của riêng từng tông phái, hệ phái, pháp môn. Sau khi học xong phần căn bản Phật pháp, bạn có thể tự tìm hiểu, nghiên cứu và học hỏi thêm ở các trang này.
Những kinh sách hay trang mạng mà chúng tôi giới thiệu chỉ là gợi ý ban đầu, có tính tổng quan. Quan trọng nhất, bạn cần kết duyên với một số Vị Tăng ( Ni ) để được trực tiếp trợ duyên, hướng dẫn chi tiết trong quá trình tự học Phật.
338 / Bị tâm thần nhẹ có nên tiếp tục tu hành ?
Đúng như bạn nói, theo quy định của Đức Phật, “người tâm lý có phần bất thường thì không được thọ giới”. Trong hoàn cảnh của bạn, nếu được bổn sư đồng ý, gia đình và Phật tử hỗ trợ kinh phí, thì bạn hãy ở chùa, tiếp tục điều trị bệnh cho đến khi lành hẳn mới xin phép thọ giới.
Bệnh tật thì ai cũng có, nhưng bệnh tâm thần khi phát khởi có thể khiến bệnh nhân mất kiểm soát lời nói và hành vi. Những biểu hiện của căn bệnh này song hành với chiếc áo tu hành thì dễ dàng khiến cho người khác hiểu và đánh giá sai lệch về nhà chùa, chư Tăng nói chung, sẽ khiến bạn tổn phước và đạo pháp bị tổn thương nghiêm trọng.
Do vậy, nếu không đủ duyên như đã nói thì bạn nên xin phép bổn sư trở về gia đình, làm người cư sĩ, tiếp tục trị bệnh. Khi nào hết bệnh thì bạn trở lại chùa xin được xuất gia.
......
Nam Mô Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo
Nam Mô Ta Bà Giáo Chủ Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
( Mỗi người hãy tự mình thấp đuốc lên mà đi, hãy tự làm hòn đảo cho chính mình. Tin chắc rằng : Phật, Pháp, Tăng là thường trụ, Phật luôn ở trạng thái Niết Bàn “ tuyệt đối “; Phật giác ngộ là tự mình, do trí “ vô sư, chứ không hải trí hữu sư “; Phật quan sát và nhìn cuộc đời, sự vận hành của tất cả các Pháp mà giác ngộ vì “ tất cả các Pháp đều là Phật Pháp “, “ Như Lai là nghĩa các Pháp như như “; “ Tất cả chúng sinh dù hữu tình hay vô tình đều có Phật tánh “; “ Tất cả các Pháp đều vận hành theo lý “ Duyên sinh “, “ Nhân qủa “, “ Phước nghiệp “……; Khi chiêm ngưỡng tượng Phật, Chúng ta cố gắng thường hình dung Đức Phật đản sanh ở Ca Tỳ La Vệ, Phật thành đạo ở Bồ Đề Đạo Tràng, Phật thuyết pháp ở Ba La Nại và Phật nhập diệt ở Câu Thi Na; đó chính là 04 động tâm, tức 04 điểm kích động tâm chúng ta, tác động căn lành chúng ta khiến chúng ta phát tâm đến với Phật. Nếu chúng ta không phát được tâm Bồ đề, đương nhiên không thể đến với Phật, không thể hiểu Phật và không thấy Phật ).
Nam Mô Thường Tịch Quang Độ Thanh Tịnh Diệu Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na Phật.
Nam Mô Thập Đại Thị Giả, Tôn Giả, Thập Tam Đại Tỳ Kheo Ni, Một Ngàn Hai Trăm Năm Mươi Năm Vị Tôn Giả, Trưởng Lão, Đại Đức, Sáu Ngàn Vị Sa Di Ni, Hòa Thượng, Ni Trưởng, Sư, Thượng Tọa, Ni Sư, Đại Đức, Sư Cô, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Thức Xoa Ma Na, Sa Di, Sa Di Ni, Tứ Chúng, Tinh Xá, Đạo Tràng, Tăng Đoàn Của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Tăng Đoàn Của Các Đức Phật Khác Trong Ba Thời Qúa Khứ, Hiện Tại, Vị Lai.
Nam Mô Thuyết Pháp Đệ Nhất Phú Lâu Na Ni Đa La Ni Tử ( Purnamaitrayaniputra - Punnamantaniputta ) Tôn Giả.
Nam Mô Trì Giới Đệ Nhất Ưu Bà Ly ( Upali ) Tôn Giả.
+ Chúng con xin nguyện : “ Lấy Pháp, Giới, Luật Làm Thầy - Nghiêm Trì Giới, Luật “
Nam Mô Giải Không Đệ Nhất Tu Bồ Đề ( Subhuti ) Tôn Giả.
+ Chúng con cố gắng giữ cho Thân, Khẩu, Ý được thanh tịnh, tỉnh thức trong từng sát na, hơi thở.
Nam Mô Luận Nghị ( Hùng Biện ) Đệ Nhất Đại Ca Chiên Diên ( Mahā Kaccāna, Maha Kaccayana, Katyayana ) Tôn Giả.
Nam Mô Phúc Lành Đầu Tiên ( s, p : Piṇḍola - Bharadvāja, 賓頭盧頗羅墮 ), Phúc Điền Đệ Nhất ) Tân Đầu Lô Phả La Đọa Xà ( Tân Đầu Lô Phả La Đọa Thệ ( 賓頭盧頗羅墮誓 ), Phả La Đọa ( s : Bharadvāja, 頗羅墮 ), Tân Đầu Lô ( 賓頭盧 ) hay Tân Đầu ( 賓頭 ); Trường Mi Tăng ( 長眉僧 ) hay Trường Mi Sa Môn ( 長眉沙門 ) ).
Nam Mô Thần Thông Đệ Nhất Đại Mục Kiền Liên ( Mahà Moggallàna ) Tôn Giả.
Nam Mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên ( Mahà Moggallàna ) Bồ Tát.
( ……Dù Cha ra sao vẫn luôn là đấng sinh thành - Dù Mẹ làm sao cũng luôn mang nặng đẻ đau ……).
Nam Mô Tây Thiên ( Ấn Độ ), Đông Độ ( Trung Hoa ), An Nam ( Việt Nam ), Xiêm La ( Thái Lan ) Truyền Giáo Lịch Đại Tổ Sư Giác Linh.
Nam Mô Pháp
Nam Mô Tăng.
Nam Mô Phật. Nam Mô Pháp. Nam Mô Tăng.
Phật Pháp cao siêu lý ẩn sâu, trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu, con nay nghe thấy chuyên trì tụng, nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu.
Phục nguyện : Thượng chúc Phật nhật tăng huy, pháp luân thưởng chuyển, phong đều vũ thuận, quốc thới dân an, thiên hạ thái bình, thiền môn thanh tịnh.
Phổ nguyện : Âm siêu dương thới, hải yến hà thanh, pháp giới chúng sinh, tề thành Phật đạo, đồng sanh Cực Lạc, đồng kiến Di Đà, đồng ngộ vô sanh, đồng thành Phật đạo.
Cầu nguyện : Dịch bệnh, chiến tranh, tai ương, tà thuyết, mê tín sớm tiêu trừ vĩnh viễn ở tất cả thế giới ( hữu hình và vô hình; hữu tình và vô tình ).
Chúng con thành tâm cầu nguyện cho giác linh Các Vị Cố Tôn Đức do niên cao lạp trưởng, bệnh duyên hoặc vì các nguyên nhân khác mà đã thuận thế vô thường, thu thần viên tịch sớm cáo đăng Phật quốc, đáo lai Ta Bà phổ độ chúng sinh
Chúng con cũng thành tâm cầu nguyện cho các hương linh, vong linh cũng sớm được siêu thoát về miền an lạc.
Chúng con thành tâm tri ân công đức của Thị Giả, Tôn Giả, Trưởng Lão, Sư, Qúy Hòa Thượng, Ni Trưởng, Thượng Tọa, Ni Sư, Đại Đức, Sư Cô, Tỷ Khưu, Tỷ Khưu Ni, Thất Xoa Ma Na, Sa Di, Sa Di Ni, Phật Tử, Tứ Chúng, Tinh Xá, Tăng Đoàn, Đạo Tràng và Kênh rất nhiều lắm.
Chúng con thành tâm cầu nguyện cho Qúy Tôn Đức cùng tất cả pháp giới chúng sinh : Pháp thể thinh an, chúng sinh dị độ, Phật sự viên thành, an lành trong cuộc đời, vạn sự cát tường như ý, hanh thông trong Phật Pháp, sớm đạt Niết Bàn tịch tịnh, giác ngộ Phật tánh, nhận rõ Phật tâm, sống an lành trong ánh từ quang của mười phương Chư Phật.
Chúng con thầm nguyện cầu cho thế giới luôn hòa bình, chúng sinh an lạc, biết quay đầu và hướng về giáo pháp Phật đà; tâm và tướng muốn tốt đẹp xuất phát từ sự chân thật, tinh tấn tu hành, không phải là nét đẹp ở bên ngoài vì “ phàm những gì có hình tướng đều không bền, hoại diệt “; đẩy lùi các tư tưởng giết hại xuất phát từ lòng sân hận, tham lam, bố thí nhưng thiếu chánh niêm,……của ba nghiệp tham, sân, si của Thân, Khẩu, Ý, tinh thần bất bình đẳng giữa các chúng sinh, tầng lớp xã hội, quan điểm chính trị, giai cấp…..loại bỏ các hình ảnh, hoạt động kinh doanh có thể gây ra, kích động tham, sân, si của ba nghiệp thân, khẩu, ý của tất cả chúng sinh, đặc biệt là các bạn thế hệ trẻ, những người chưa có duyên vời Phật Pháp. Khuyến khích các nghề nghiệp chân chính như lời Phật, Tổ, Chư Hiền Thánh Tăng đã truyền dạy. Khuyến khích, ca ngợi, trân trọng, không tham ganh, ghen ghét để làm tăng trưởng, tinh tấn tu học theo Phật Pháp của tất cả pháp giới chúng sinh, mọi người.
Chúng con thành tâm xin cầu nguyện, cầu mong cho tất cả pháp giới chúng sinh với tín, hạnh, nguyện và hành theo lời dạy của Chư Phật, Tổ, Hiền Thánh Tăng như thế này, thường xuyên :
+ Quy y, tôn trọng, tin tưởng vào sự thường trụ của Phật Pháp Tăng Tam Bảo để tu Giới, Định, Huệ từ đó diệt trừ ba độc Tham, Sân Si. Điều này nếu thực hiện được thì tránh khỏi sáu tội ngũ nghịch lớn :
1. Giết cha.
2. Giết mẹ.
3. Giết A La Hán.
4. Làm thân Phật chảy máu.
5. Phá hòa hợp Tăng chúng.
6. Lấy trộm đồ vật của Tăng.
......
Phật Pháp và Cuộc Sống : Tất cả các Pháp đều là Phật Pháp : Chúng sanh đa bệnh - Phật Pháp đa phương : ( đoạn 176 ) :
532 / Ý nghĩa & cách thức sử dụng chuông mõ tại tư gia
Chuông gia trì và mõ là hai pháp khí quan trọng để hàng Phật tử tụng kinh, niệm Phật tại tư gia. Chuông gia trì được đúc bằng chất liệu đồng, kích thước vừa và nhỏ, thường đặt phía bên tay phải người chủ lễ, khi thỉnh chuông tiếng ngân vang thanh thoát mà trầm hùng.
Chuông gia trì chủ yếu sử dụng trong khi làm lễ, tụng niệm. Tiếng chuông gia trì là những hiệu lệnh cần thiết để buổi lễ diễn ra nhịp nhàng đúng với trình tự của khoa nghi, giúp mọi người tham dự lễ hòa hợp, thanh tịnh và hướng đến nhất tâm.
Người thỉnh chuông gia trì gọi là duy na. Trong buổi lễ, duy na là người điều hành buổi lễ theo đúng với ý hướng của vị chủ lễ. Vì vậy, người thỉnh chuông gia trì phải am tường khoa nghi và chú tâm cao độ mới có thể làm tốt phận sự của mình.
Ngoài chuông gia trì, mõ cũng là một pháp khí rất quan trọng. Mõ được làm bằng gỗ, hình bầu dục, được đặt phía bên tay trái người chủ lễ, khi gõ mõ phát ra tiếng trầm hùng mà thanh thoát.
Trong khi tụng niệm, tiếng mõ có tác dụng duy trì sự nhịp nhàng đều đặn, không lộn xộn đồng thời tạo ra cảm giác hân hoan, phấn chấn, và nhờ đó, người tụng niệm khỏi bị rối trí loạn tâm, chuyên nhất vào tiếng kệ lời kinh. Ngoài ra, tiếng mõ nhằm cảnh tỉnh tâm trí những người tham gia tụng niệm khỏi bị buồn ngủ, dã dượi, và cũng chính vì ý này mà quai mõ, thân mõ thường chạm trổ hình cá, loài không bao giờ nhắm mắt ngủ để biểu thị cho sự luôn luôn tỉnh thức.
Người gõ mõ trong buổi lễ gọi là duyệt chúng, nghĩa là làm cho đại chúng đẹp lòng, tụng niệm một cách hòa hợp, hân hoan. Vì thế, gõ mõ làm cho vui lòng đại chúng trong khi tụng niệm nhằm giúp họ hướng đến nhất tâm là cả một nghệ thuật, phải học tập và rèn luyện thật nhiều mới có thể làm tròn phận sự.
Về cách thức sử dụng chuông mõ tại tư gia, trước khi làm lễ cần đốt hương đèn, kế đó chủ lễ mặc áo tràng trang nghiêm bước vào vị trí trước bàn kinh chuẩn bị quỳ niêm hương, thỉnh ba tiếng chuông ( trước khi thỉnh chuông cần thức chuông, giập nhẹ dùi vào vành chuông ). Trong trường hợp không có người giúp chuông mõ hay tụng niệm một mình thì vị chủ lễ phải kiêm hết cả chuông lẫn mõ.
Kế đến vị chủ lễ xướng bài Quán tưởng, cuối bài xá Phật một xá, thỉnh một tiếng chuông. Rồi đến đảnh lễ Tam bảo, trước mỗi lạy thỉnh một tiếng chuông ( khi vị chủ lễ lạy trán chạm đất thì giập chuông - dùng dùi chuông gõ vào vành chuông nhưng giữ lại, không cho âm thanh ngân lên ).
Sau khi lễ Phật xong, mọi người ngồi xuống hướng về Tam bảo, chuẩn bị khai chuông mõ để tụng niệm. Ở đây, để tiện diễn đạt, tạm quy ước tiếng chuông là (c) và tiếng mõ là (m). Trước, thỉnh ba tiếng chuông rời nhau - (c), (c), (c). Sau ba tiếng chuông, gõ bảy tiếng mõ theo cách : bốn tiếng đầu rời, hai tiếng sau dính liền, một tiếng sau cùng rời - (m), (m), (m), (m), (m)(m), (m). Tiếp theo là thỉnh chuông và mõ đan xen nhau theo cách : chuông trước mõ sau, ba lần như vậy thì ngừng chuông, kế mõ gõ tiếng thứ tư, tiếng mõ thứ năm và sáu dính liền nhau, tiếng mõ thứ bảy rời - (c), (m), (c), (m), (c), (m), (m), (m)(m), (m) - chấm dứt bằng tiếng giập chuông.
Khai chuông mõ xong thì bắt đầu tụng niệm, lệ thường mỗi chữ một tiếng mõ. Cần chú ý là khi tiếng kinh ( kệ ) đầu tiên cất lên, chưa gõ mõ, tiếng thứ hai mới đệm một tiếng mõ, tiếng thứ ba không gõ mõ, tiếng thứ tư, thứ năm về sau nhịp mõ đều đặn. Nếu tụng thần chú thì nhanh, tụng kinh sám thì chậm hoặc vừa; tụng kinh bộ thì nên gõ mõ theo lối “ nhanh dần đều ”. Đến khi chấm dứt bài kinh ( kệ ), muốn dừng lại, thì những tiếng mõ gần cuối gõ chậm lại, hai tiếng mõ áp chót dính liền và tiếng mõ cuối cùng gõ rời ra - (m), (m)(m), (m).
Thỉnh chuông cũng vậy, thường thì cuối bài kệ hay cuối đoạn kinh điểm một tiếng chuông. Lúc niệm Phật, muốn chuyển qua danh hiệu khác, thỉnh một tiếng chuông. Khi muốn chấm dứt thì tiếng thứ năm ( hoặc thứ ba ) gần cuối bài kinh ( kệ ) thỉnh một tiếng chuông, tiếng cuối cùng thỉnh thêm một tiếng chuông nữa.
Về cách thức tụng niệm, bạn hãy thỉnh một cuốn kinh Nhật tụng bằng tiếng Việt ( tránh dùng kinh Nhật tụng phiên âm Hán - Việt, vì phần nhiều không hiểu nghĩa ). Trong kinh, mỗi phần đều có hướng dẫn tụng niệm rất rõ ràng. Phối hợp với cách sử dụng chuông mõ như đã nêu, bạn có thể tụng kinh, niệm Phật, lễ Phật hàng ngày rất dễ dàng.
......
Phật Pháp và Cuộc Sống : Tất cả các Pháp đều là Phật Pháp : Chúng sanh đa bệnh - Phật Pháp đa phương : ( đoạn 173 ) :
523 / Phật Niết bàn nằm nghiêng bên nào ?
Theo Kinh Trường bộ I, ghi nhận hình ảnh Thế Tôn khi chuẩn bị nhập Niết bàn nằm nghiêng bên phải : “ Rồi Thế Tôn, cùng với đại chúng Tỳ kheo đi đến bên kia sông Hirannavati, tại Kusinàrà Upavattana, rừng Sàlà của dòng họ Mallà, khi đi đến nơi liền nói với Tôn giả Ananda :
Này Ananda, hãy trải chỗ nằm, đầu hướng về phía Bắc giữa hai cây sàlà song thọ. Này Ananda, Ta nay mệt mỏi, muốn nằm nghỉ.
Xin vâng, bạch Thế Tôn !
Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn, trải chỗ nằm, đầu hướng về phía Bắc giữa hai cây sàlà song thọ. Và Thế Tôn nằm xuống, về phía hông bên phải, như dáng nằm con sư tử, hai chân để lên nhau ( Kinh Đại bát Niết bàn, số 16 ).
Kinh Trường A hàm cũng ghi nhận tương tự như vậy : “ Bấy giờ Phật vào thành Câu thi, Ngài đến nơi sinh quán đời trước, giữa cây song thọ, thuộc bộ tộc Mạt la, và bảo A nan :
Ông hãy sửa chỗ cho Ta nằm, giữa cây song thọ, đầu quay về hướng Bắc, mặt quay về hướng Tây.
Sau khi sửa soạn xong, Đức Thế Tôn nằm nghỉ, và tự lấy y Tăng già lê xếp thành bốn lớp đắp lên mình. Ngài nằm nghiêng về bên phải, như sư tử chúa, hai chân chồng lên nhau ” ( Kinh Du hành, số 02 ).
Kinh điển Đại thừa, thuộc hệ Phật giáo phát triển cũng ghi nhận Đức Phật nhập Niết bàn nằm nghiêng bên phải : “ Sau khi ba lần thuận nghịch nhập các thiền định cùng phổ cáo đại chúng, Đức Thế Tôn nằm nghiêng bên hữu ( phải ) trên giường thất bảo : Gối đầu phương Bắc, chân chỉ thẳng phương Nam, mặt hướng về phương Tây, lưng day qua phương Đông ( Kinh Đại Bát Niết bàn, phẩm 27 ).
Như vậy, nằm nghiêng bên phải là một trong những đặc điểm quan trọng của tướng Niết bàn. Do đó, tạc tượng Phật Niết bàn nằm nghiêng về bên trái, thiết nghĩ không phù hợp với “ Niết bàn tướng ” mà kinh luận Phật giáo đã đặc tả.
524 / Thần thức có mặt trong bào thai khi nào ?
Thần thức là một trong ba thành tố căn bản hình thành nên bào thai, mầm sống trong giai đoạn nguyên thủy và sơ khai nhất. Theo Phật giáo, bào thai do tinh cha huyết mẹ cùng thần thức hòa hợp mà thành. Đoạn kinh sau đây đã xác chứng điều này : “ Này các Tỳ kheo, có ba sự hòa hợp mà một bào thai thành hình : ở đây, cha mẹ có giao hợp và người mẹ không trong thời có thể thụ thai, và hương ấm ( gandhabba ) không hiện tiền, như vậy bào thai không thể thành hình. Ở đây, cha và mẹ có giao hợp, và người mẹ trong thời có thể thụ thai, nhưng hương ấm ( gandhabba ) không hiện tiền, như vậy bào thai không thể thành hình. Và này các Tỳ kheo, khi nào cha mẹ có giao hợp, và người mẹ trong thời có thể thụ thai, và hương ấm có hiện tiền; có ba sự hòa hợp như vậy, thì bào thai mới thành hình ” ( Kinh Trung bộ I, Đại kinh Đoạn tận ái, số 38 ).
Kết hợp tuệ giác kinh Phật với những khảo nghiệm của khoa học hiện đại, chúng ta có thể xác định, thời khắc thụ thai ( lúc tinh trùng xâm nhập vào trứng ) cũng chính là lúc thần thức có mặt để hội đủ nhân duyên hình thành bào thai.
Về vấn đề, người Phật tử ăn trứng vịt lộn có phạm giới sát sanh ? Như chúng tôi đã từng trình bày, ngoài những ngày ăn chay thì người Phật tử ăn uống bình thường. Tuy nhiên trong những ngày không ăn chay ấy, người Phật tử nên mua các thực phẩm ( cá, thịt ) đã làm sẵn, không trực tiếp giết hại. Do vậy, nếu người Phật tử luộc trứng vịt lộn ( trực tiếp giết ) thì mang tội sát sanh nhưng mua trứng mà người ta đã luộc sẵn về ăn thì không phạm giới sát. Nhân đây thiết nghĩ cũng cần nói thêm rằng, ăn trứng vịt lộn ở xứ ta là chuyện bình thường nhưng với đa phần người nước ngoài xem đó là “ dã man ”. Vì thế, trong những ngày không ăn chay, Phật tử cũng nên tránh các thực phẩm “ độc ” có thể gây thêm tính ác cho con người.
525 / Bất hiếu & tà kiến ?
Chị của bạn lúc gần cuối đời, một phần do bệnh tật đau đớn hành hạ, một phần do phiền muộn và tức giận con cái nên đã nói ra những lời cay độc. Những dấu hiệu đó cho thấy trước lúc chết, cận tử nghiệp của chị cũng không được thanh thản và nhẹ nhàng. Thông thường, người lúc sắp lâm chung mang cận tử nghiệp xấu ác thì khó có thể sanh vào cõi lành.
Còn những người con của chị bạn đã không tròn câu hiếu đạo khi mẹ của họ còn sanh tiền. Sau khi mẹ chết, vì sợ “ mẹ về cắn ” nên họ đã nhờ thầy pháp trấn yểm, giam cầm mẹ vĩnh viễn ngoài phần mộ chịu lạnh lẽo, đói khát lại càng bất hiếu hơn. Ở đây, chúng tôi chưa nói đến việc liệu thầy pháp có thực sự làm được những yêu cầu ấy hay không, chỉ xét đến động cơ của việc làm này đã cho thấy con cái đã cạn tình với mẹ, bất hiếu nặng nề.
Theo quan điểm của Phật giáo, một người khi chết đi thì thần thức theo nghiệp thọ sanh. Năng lực của nghiệp rất mạnh mẽ không gì có thể ngăn cản được. Do đó, việc nhờ thầy pháp trấn yểm để giam cầm vĩnh viễn người chết dưới mộ phần là điều không thể. Trấn yểm người thân chỉ là tín niệm dân gian, mang sắc thái tà kiến, mê tín, phi nhân và phi nghĩa.
Thiết nghĩ, việc giải thoát cho chị của bạn, theo hướng tháo gỡ bùa phép đã trấn yểm, thực sự là không cần. Vì như đã nói ở trên, không gì có thể ngăn được nghiệp lực tìm hướng tái sanh nên chắc chắn chị của bạn không bị “ nhốt dưới mộ ” mà sẽ tùy nghiệp tái sanh vào một trong những cảnh giới của lục đạo. Tuy nhiên, với cận tử nghiệp nhiều vướng mắc và muộn phiền nên chị của bạn khó được sanh vào cõi lành.
Trong Phật giáo có những pháp thức siêu độ vong linh, nhất là những chúng sanh đọa lạc trong tam đồ, ác đạo. Vấn đề là, những người thân có tâm nguyện và khả năng để thỉnh Tăng lập đàn siêu độ cho người chết hay không.
......
Phật Pháp và Cuộc Sống : Tất cả các Pháp đều là Phật Pháp : Chúng sanh đa bệnh - Phật Pháp đa phương : ( đoạn 177 ) :
533 / Giữ giới không sát sanh
Trong năm giới, giới không sát hại chúng sanh được xếp đầu tiên, vì giết hại là một tập khí sâu dày của chúng sanh nên Đức Phật nhấn mạnh để chúng ta lưu tâm. Người Phật tử giữ giới không sát sanh cần hết sức lưu ý rằng : Trọng tâm của giới này là không giết người, kế đến là tránh giết các loài to lớn như heo gà chó mèo…, đối với các loài li ti nhỏ nhít thì cũng không cố sát nhưng nếu vô tình giẫm đạp hay làm tổn hại chúng thì phải thành tâm sám hối.
Do đó, nếu giết người thì người Phật tử phạm giới thứ nhất không sát sanh, chắc chắn sẽ đọa vào ác đạo, chịu quả báo nặng nề. Còn nếu cố tình ( hay vô ý ) giết hại các loài vật khác thì bị khuyết giới, tuy vẫn bị quả báo xấu về sau ( tùy mức độ tạo nghiệp ) nhưng có thể ăn năn, sám hối. Tùy theo sự thành tâm sám hối của mình, đồng thời nguyện không tái phạm và tích cực phóng sanh thì nghiệp sát của mình sẽ mỏng dần cho đến nhẹ nhàng.
Trong trường hợp vì công việc hay giao tế cần tham dự tiệc tùng với đối tác và bạn bè, nếu bạn làm tổn hại chúng sanh ( như ăn lẩu tôm, cá còn sống nấu ngay trên bàn ) thì như trên đã nói, bạn bị khuyết giới chứ chưa phạm giới. Do đó, bạn phải thành tâm sám hối tội lỗi nghiệp chướng của mình.
Tuy nhiên, trong những trường hợp có thể từ chối được, bạn cần nói rõ với mọi người rằng bạn là Phật tử, đã phát nguyện không sát hại chúng sanh. Dẫu ngoài những ngày ăn chay thì bạn vẫn ăn uống bình thường nhưng đó là thực phẩm đã làm sẵn, không trực tiếp giết hay chứng kiến người khác giết các loài vật để làm thức ăn cho mình.
Sự hòa hợp với bạn bè là cần thiết nhưng vẫn có thể hòa mà không đồng. Đơn cử như có khá nhiều người tham dự tiệc tùng mà phải ăn kiêng vì bệnh thì họ chỉ dùng những món phù hợp. Cũng vậy, trong khi nhóm bạn bè ăn lẩu tôm tươi sống, nếu bạn không thích thì có thể gọi cho mình một món khác phù hợp hơn mà không có gì trở ngại cả.
Thiết nghĩ, người Phật tử chân chính nên tự khẳng định mình là Phật tử trước mọi người và luôn thể hiện những phẩm chất đạo đức tốt đẹp ( không giết hại, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không say nghiện ) của mình. Chính sự thẳng thắn và thành thật về mình ( là một Phật tử ) thì mọi người sẽ tôn trọng, hiểu và cảm thông với mình hơn, nhất là không hề cho mình là lập dị hay cố tình khác người.
534 / Tùy duyên trong Phật giáo là thế nào ?
Duyên sinh ( duyên khởi ) là một trong những giáo lý trọng yếu của Phật giáo. Mọi sự, mọi việc ở đời đều do nhân duyên sinh. Các nhân duyên tác động và chi phối lẫn nhau trùng trùng điệp điệp, vô cùng vô tận.
Tùy duyên có nghĩa chính là tùy thuộc vào nhân duyên. Đủ nhân ( nguyên nhân chính ), đủ duyên ( các nhân phụ ) thì sự việc ( vật ) thành; thiếu nhân, thiếu duyên thì sự việc ( vật ) chưa thành. Sự thành - trụ - hoại - không của thế giới hay sanh - lão - bệnh - tử của nhân sinh hoàn toàn tùy thuộc vào nhân duyên.
Người Phật tử biết các pháp đều tùy duyên nên chủ động nỗ lực tạo ra các nhân duyên tốt lành để mong nhận quả báo tốt đẹp. Nếu thành công thì người Phật tử cũng không quá tự hào, vì biết duyên lành đã tròn đủ. Ngược lại, sau khi đã hết sức cố gắng mà nếu như sự việc vẫn không như ý mình thì cũng an nhiên, vì chưa đủ duyên.
Tùy duyên là tâm thái sống minh triết, an nhiên trước mọi biến động của cuộc đời. So với quan niệm “ cái gi đên rôi sẽ đến nên ” một cách đơn thuần thì tinh thần tùy duyên năng động hơn rất nhiều trong việc chủ động tạo thêm nhân duyên tốt lành đồng thời cũng rất nhẹ nhàng nếu “ cái sẽ đến ” không được toại nguyện, như ý.
535 / Điều phục vọng tưởng :
Những nỗi khổ niềm đau trong đời thì ai cũng có. Theo thời gian, có người nhanh chóng quên đi quá khứ đau buồn hoặc có nhớ lại thì cũng thoáng qua. Nhưng có người thì không thể nào nguôi ngoai được, ký ức về quá khứ đau buồn rất sâu đậm và mạnh mẽ, luôn trỗi dậy trong tâm trí khiến cho vết thương lòng càng thêm dai dẳng.
Nói về nhân quả - nghiệp báo thì tất cả những biểu hiện của thân tâm mình trong hiện tại đã phản ánh rõ nét nghiệp của mình đã gây tạo trong quá khứ ( xa và gần ). Điều đáng nói là nghiệp lực của mỗi người do tự mình tạo ra nhưng nghiệp không cố định, nếu nỗ lực tu dưỡng thì có thể chuyển hóa được.
Bạn hay nhớ lại chuyện “ những người gây oán thù với mình ”. Dù bạn không muốn nhớ những chuyện đau buồn ấy nhưng vẫn cứ nhớ, chứng tỏ trong sâu thẳm của nội tâm bạn vẫn còn cố chấp, chưa thực sự buông xả. Bạn cần bình tâm quán sát thật rõ về những “ oán thù ” ấy để thấy rằng đó là quả đắng của các nhân bất thiện trong những đời quá khứ. Có vay thì phải trả, trả được chừng nào thì nhẹ nhàng hơn chừng nấy.
Khi chưa biết đạo, tâm mình luôn ghim gút hận thù. Nay mình hiểu rõ đạo lý nhân quả - nghiệp báo ( tất cả đều do mình ) nên chấp nhận những quả báo xấu, xem như đã trả nợ rồi buông xả và tha thứ hết thảy, kể cả những người đã làm khổ mình. Chính sự chấp nhận, tha thứ và buông xả đã tháo tung nội kết chôn vùi trong tâm bấy lâu nay. Khi hạt giống khổ đau và oán hận được nhổ lên và chuyển hóa thì chúng sẽ ít tái hiện lại trong tâm thức. Nhờ đó, tâm bạn sẽ thanh thản, nhẹ nhàng hơn.
Đối với vấn đề bạn “ hay lo lắng mặc dù chuyện ấy chưa xảy ra với mình và lại hay đặt tình huống giả định rồi sợ hãi ” chính là vọng tưởng và cũng là nghiệp riêng của bạn. Bạn nên quán chiếu việc quá khứ thì đã qua rồi, việc tương lai thì chưa đến để an trú trong hiện tại; mà thực ra hiện tại cũng đang trôi chảy nói gì đến tương lai.
Đối với ý kiến cho rằng “ vọng tưởng của mình là do các vong linh gợi lên ”, theo chúng tôi, có chăng cũng chỉ là một vài trường hợp hi hữu như báo mộng chẳng hạn. Người học Phật có chánh kiến cần xác quyết rằng vọng tưởng chính là do nghiệp lực của mình ( nội ma ) dấy động, không nên nghĩ rằng vọng tưởng đó là do trời thần ma quỷ vong hồn nào đó ( ngoại ma ) gợi lên.
Bạn đã biết niệm Phật A Di Đà ( hay Bồ tát Quán Thế Âm ) thì hàng ngày nên siêng năng niệm Phật, lấy đó làm pháp môn tu của mình. Cần có ít nhất hai thời niệm Phật cố định trong ngày, sau đó tùy duyên niệm Phật mọi lúc, mọi nơi.
Trong quá trình tu tập, không phải đợi vọng tưởng khởi lên mới niệm Phật mà ngược lại bạn luôn niệm Phật, còn vọng tưởng khởi lên thì cứ mặc nhiên ( chỉ cần chánh niệm nhận biết rõ mà không duyên theo rồi tự nó cũng tan biến mà thôi ). Vọng tưởng như vang theo tiếng, như bóng theo hình. Phải thấy rằng, vọng tưởng là khách, tâm chánh niệm với Phật hiệu mới là chủ. Khách đến mà chủ không tiếp thì khách tự ra đi. Nên trọng tâm tu tập của bạn là “ không ngại vọng tưởng khởi lên, chỉ ngại không nhất tâm niệm Phật ”.
Việc sám hối nghiệp chướng, oan gia trái chủ tiền khiên cũng rất cần thiết nhưng chính yếu của tu tập là thiết lập được giới - định - tuệ trong đời sống hàng ngày. Sống đạo đức thì tâm mới an định, tâm được định thì trí mới sáng, trí sáng thì vô minh phiền não tiêu tan, và nhờ đó bạn thành tựu thảnh thơi, an lạc.
......
Phật Pháp và Cuộc Sống : Tất cả các Pháp đều là Phật Pháp : Chúng sanh đa bệnh - Phật Pháp đa phương : ( đoạn 172 ) :
520 / Thờ tượng Phật ngoài trời tại tư gia có phạm pháp ?
Trước hết chúng tôi hoan nghênh tinh thần “ là Phật tử chân chánh, luôn tôn trọng pháp luật ” của bạn. Là một công dân tốt, một Phật tử mẫu mực thì điều đầu tiên phải tuyệt đối tuân thủ pháp luật.
Nói về pháp luật thì đương nhiên là đúng đắn, quy định cụ thể, chi tiết và ngày tháng rõ ràng. Pháp luật luôn được công khai, mọi người đều biết rõ để cùng nhau chấp hành. Trường hợp cán bộ xã buộc người dân thực thi pháp luật mà chỉ nói chung chung, ra lệnh bằng miệng, cố tình giấu giếm hoặc không dựa vào văn bản pháp luật hiện hành nào cả là điều không thể chấp nhận.
Bạn là người dân nên vốn không mấy am tường về các văn bản pháp luật, nhất là các nghị định, nghị quyết… mới, nên có quyền yêu cầu cán bộ hướng dẫn cụ thể để hiểu và chấp hành. Nếu cán bộ không đưa ra văn bản pháp luật nào mà bắt buộc hay cưỡng chế người dân di dời một công trình nào đó thì chính các cán bộ ấy vi phạm pháp luật.
Có hai vấn đề cần đặt ra trong trường hợp của bạn, nếu thực sự có văn bản pháp luật mới quy định cấm “ thờ tượng Phật ngoài trời ” tại tư gia thì phải xem thời gian ra đời của văn bản đó. Bạn đặt tượng từ 07 năm trước, nay mới có quy định thì chắc chắn bạn không vi phạm pháp luật. Trong trường hợp này, cán bộ nên ân cần vận động, nhẹ nhàng giải thích, hỗ trợ nhiều cách cho người dân hiểu vấn đề để họ tự nguyện thực thi pháp luật vì lợi ích chung. Ngược lại, nếu bạn dựng tượng sau ngày ban hành văn bản pháp luật thì bạn đã phạm pháp. Trường hợp này cán bộ mới có quyền xử lý người vi phạm theo pháp luật hiện hành.
Về phương diện văn bản pháp luật, chúng tôi đã tìm hiểu Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo ( số 21 / 2004 / PL - UBTVQH11, ngày 18 - 6 - 2004 ), Nghị định số 92 / 2012 / NĐ - CP ( do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký ngày 8 - 11 - 2012 về tín ngưỡng, tôn giáo ), Hiến chương Giáo hội Phật giáo Việt Nam ( tu chỉnh lần 5 ), Nội quy Ban Hướng dẫn Phật tử Trung ương ( tu chỉnh lần 4 )… và cũng chưa tìm thấy quy định cấm “ thờ tượng Phật ngoài trời ” tại tư gia Phật tử.
Điều đáng nói là hiện nay, một số địa phương trên cả nước vẫn tồn tại việc chính quyền yêu cầu người dân Phật tử tháo dỡ, di dời tượng thờ lộ thiên tại tư gia ( ra lệnh bằng miệng ) mà hầu như không đưa ra một văn bản pháp luật nào cả. Điều này khiến cho không ít Phật tử bức xúc phản đối cũng như tạo ra sự lúng túng trong khi xử lý vấn đề của chính quyền địa phương. Thiết nghĩ, Giáo hội Phật giáo Việt Nam cần phối hợp với các ban ngành chức năng của Nhà nước sớm ban hành quy chế cụ thể về tượng thờ lộ thiên ( như địa điểm và cách thức tôn trí, kích thước tôn tượng… ) để người Phật tử được tự do thể hiện tín ngưỡng cũng như sự quản lý của Nhà nước được thuận tiện và rõ ràng.
Cần nói thêm rằng, trong đời sống thực tiễn xã hội, việc Phật tử thờ tượng Bồ tát lộ thiên ở trên sân thượng, non bộ và trong sân vườn tại tư gia Phật tử là truyền thống lâu đời và rất phổ biến. Trong tín ngưỡng thờ phụng của Phật giáo, hầu hết các vị Phật và Bồ tát, Thánh tăng thường thờ trong chánh điện, đặc biệt riêng Bồ tát Quán Thế Âm thường được thờ ngoài trời, ngoài biển, ngoài vườn ( quen gọi là Quán Âm lộ thiên ).
Trở lại vấn đề, bạn đang sống trong một xã hội với hệ thống pháp luật tương đối hoàn chỉnh và nghiêm minh. Vì thế, nếu chính quyền xã nơi bạn cư trú không đưa ra văn bản nào của Nhà nước quy định cấm “ thờ tượng Phật ngoài trời ” tại tư gia Phật tử thì bạn không có nghĩa vụ chấp hành, và bạn hoàn toàn không vi phạm pháp luật.
521 / Cần làm phước để hồi hướng
Trong vòng 49 ngày là khoảng thời gian tốt nhất cho thân nhân làm phước rồi hồi hướng công đức cho người thân đã mất. Cách thức làm phước thì rất đa dạng, nhưng thông dụng và phổ biến hơn cả là phát tâm tụng kinh, cúng dường, bố thí, ăn chay, ấn tống kinh sách, phóng sanh,…nói chung là hướng Phật, làm lành.
Cần lưu ý là, việc làm phước của thân nhân chỉ có tác dụng trợ duyên nhằm “ ảnh hưởng tốt nhất đến tiến trình tái sanh ” mà thôi chứ không mang tính quyết định. Chính nghiệp lực của mỗi người tốt hay xấu kết hợp với khả năng thức tỉnh nhiều hay ít mới là nhân tố quan trọng quyết định xu hướng tái sanh vào cảnh giới lành hay dữ trong lục đạo.
Sau khi hỏa táng, tro cốt người mất nên thờ ở chùa hay nghĩa trang; ở nhà chỉ nên thờ di ảnh mà thôi.
522 / Thân trung ấm tồn tại có trái ngược với giáo lý Vô ngã ?
Đúng là trong Kinh Bát Nhã, Đức Phật dạy “ năm uẩn đều không ”. Khó hiểu nhất trong lời dạy này là chữ Không. Không đây không phải mang nghĩa đối lập với có, là không có gì cả mà siêu việt nghĩa có - không thường tình. Không chính là không có tự tính, duyên khởi tính, vô ngã tính, là Sunyata. Như vậy, Phật dạy thân năm uẩn này là không có tự ngã, do duyên sanh chứ không nói thân này là “ không có cái gì cả ”.
Ngoài giáo lý duyên sanh, vô ngã, Đức Phật còn dạy về luân hồi và tái sanh. Con người sau khi chết không mất hẳn mà tái sanh vào trong lục đạo tương ứng với nghiệp của mình. Vậy cái gì đi tái sanh ? Cái đó, tạm gọi là “ thần thức - hương linh - thân trung ấm - trung hữu ”. Điều đáng nói là cái thần thức… này không phải là linh hồn trường cửu, bất biến ( như quan niệm của các tôn giáo khác ) mà nó cũng duyên sanh, vô ngã như thân năm uẩn vậy. Có thể nói, khi còn sanh tiền năm uẩn đều Không, khi mất rồi thần thức… cũng đều Không. Và như thế, không có gì chấp ngã hay không đúng với “ lời kinh, ý Phật ” hoặc “ ngược lại với giáo lý vô thường, vô ngã, tánh không ” cả.
Theo chỗ bạn biết : “ thời Đức Phật còn trụ thế, Ngài chưa từng nói về lễ cầu siêu, cũng chưa từng có thuyết linh ”, thiết nghĩ, bạn có biết nhưng chưa trọn. Trước hết, đối tượng để cầu siêu không phải chỉ có thần thức, thân trung ấm mà các chúng sanh trong ác đạo ( đặc biệt là loài ngạ quỷ sống quanh ta ). Thời Phật tại thế, chính Đức Phật cũng như các Tỳ kheo nói pháp khai thị ( thuyết linh ) cho các ngạ quỷ, dạ xoa, la sát giác ngộ, bỏ tà quy chánh rất nhiều. Mặt khác, mỗi khi có người qua đời, tứ chúng thường hỏi Thế Tôn vị ấy sanh về nơi nào, Thế Tôn thường nói cho tứ chúng biết rõ người ấy đã siêu thoát hay bị đọa lạc. Và như thế, lễ cầu siêu hiện nay là hoàn toàn cần thiết trong tâm nguyện cầu âm siêu, dương thái của mọi người.
Vấn đề “ Đức Thế Tôn có phải đang dần bị các thứ nghi lễ kia thần thánh hóa, biến thành vị thần xin thì cho, cầu thì ban hay không ” hoàn toàn tùy thuộc vào tuệ giác, chánh kiến của những người thực hành các nghi lễ cầu an, cầu siêu. Nếu những thí chủ tổ chức lễ chỉ nhằm “ xin, cầu ” Phật cho họ an, siêu và những vị Tăng ( Ni ) cũng nhắm mắt “ xin, cầu ” giúp cho thí chủ mà không khai hóa, hướng dẫn họ hiểu và tu học đúng như Chánh pháp thì việc này không phải là Phật sự đúng nghĩa. Bởi Phật không có quyền ban phúc hay giáng họa cho ai nên “ xin, cầu ” thì Ngài cũng không giúp được ( huống là những Tăng, Ni bình thường ). Chỉ có nhân quả mới thực sự có quyền năng, nên hãy gieo nhân lành để gặt phước quả tốt đẹp. Phật dạy nên “ xin, cầu ” điều tốt để hưởng quả lành. Cầu siêu cũng vậy, Phật cũng không giúp cho họ siêu sanh, và chúng ta không một ai có thể làm cho họ siêu sanh, trừ việc chính họ tỉnh thức mà thăng hoa, siêu thoát.
Đức Phật là bậc Giác ngộ, giáo pháp của Ngài luôn đồng nhất một vị giải thoát. Vì thế, cần nghiên tầm và thực hành theo đúng Chánh pháp để được lợi ích, an lạc.
......
Phật Pháp và Cuộc Sống : Tất cả các Pháp đều là Phật Pháp : Chúng sanh đa bệnh - Phật Pháp đa phương : ( đoạn 216 ) :
665 / Phật lịch được tính như thế nào ?
Niên đại Đản sinh và nhập Niết Bàn của Đức Phật Thích Ca, về phương diện nghiên cứu độc lập hiện tồn nhiều thuyết khác nhau, nhưng về phương diện phổ quát, Phật giáo thế giới đều thống nhất Đức Phật Thích Ca đản sinh năm 624 ( trước Tây lịch ) và nhập Niết Bàn năm 544 ( trước Tây lịch ), trụ thế 80 năm.
Về Phật lịch, Phật giáo thế giới lấy mốc năm Đức Phật Thích Ca nhập Niết Bàn để tính năm đầu Phật lịch ( 544 trước Tây lịch ). Khởi nguyên từ Đại hội Phật giáo Thế giới tổ chức lần thứ I tại Sri Lanka ( Tích Lan ) vào năm 1950, toàn thể đại biểu Phật giáo đại diện 26 quốc gia thống nhất lấy năm Đức Phật Thích Ca nhập Niết Bàn làm mốc để tính năm đầu Phật lịch ( cờ Phật giáo thế giới cũng được quyết nghị công bố và áp dụng tại Đại hội lịch sử này ). Đến Đại hội Phật giáo thế giới lần thứ VI, tổ chức tại Campuchia vào năm 1961, thống nhất ngày kỷ niệm Phật đản sinh trên toàn thế giới là ngày rằm tháng Tư âm lịch ( ngày trăng tròn tháng Vesak của Ấn Độ ).
Cách tính Phật lịch là lấy năm Đức Phật nhập Niết Bàn cộng với năm hiện tại. Ví dụ, năm 2023 thì Phật lịch được tính : 544 + 2023 = 2567. Tuy nhiên, nói năm 2023 ứng với Phật lịch 2567 là nói chung, chính xác phải tính được ngày để sang năm mới Phật lịch.
Hiển nhiên, Phật giáo thế giới đã chọn năm Phật Thích Ca nhập diệt làm mốc tính năm đầu Phật lịch thì chắc chắn ngày sang trang Phật lịch trong năm phải là ngày kế sau ngày Đức Phật nhập diệt. Nhưng thực tế hiện nay, ngày sang trang Phật lịch trong năm lại là ngày kế sau ngày Đức Phật đản sanh ( ngày 16 - 4 âm lịch ).
Vì sao như vậy ?
Theo Phật giáo Bắc truyền, Đức Phật Thích Ca đản sanh ngày 15 - 4 âm lịch ( trước năm 1960 là ngày 08 - 4 âm lịch ), Thành đạo ngày 08 - 12 âm lịch và Nhập diệt ngày 15 - 02 âm lịch. Theo Phật giáo Nam truyền, ngày 15 - 04 âm lịch ( ngày trăng tròn tháng Vesak ) là ngày Đại lễ Tam hợp, kỷ niệm ba sự kiện Phật Thích Ca Đản sanh, Thành đạo và nhập Niết Bàn. Hiện Phật giáo thế giới đã chuẩn hóa ngày sang trang Phật lịch là ngày kế sau ngày Phật Niết Bàn ( ngày 16 - 04 âm lịch ) hàng năm. Nhưng vì ngày Phật nhập diệt trùng với ngày Phật đản sanh ( theo Phật giáo Nam truyền ) nên khiến nhiều người nghĩ rằng sau ngày Phật đản là ngày sang trang Phật lịch.
Như vậy, sau khi xác định được ngày sang trang năm mới Phật lịch là ngày 16 - 04 âm lịch hàng năm, thì ngay trong năm 2023, trước ngày 16 - 04 âm lịch ( trước 03 - 6 - 2023 ) Phật lịch vẫn tính 2566, từ ngày 16 - 04 âm lịch ( 03 - 6 - 2023 ) trở đi cho đến Phật đản năm sau, Phật lịch được tính 2567.
Như đã trình bày, hai truyền thống Phật giáo lớn trên thế giới đều thống nhất về năm Phật lịch đầu tiên là năm Đức Phật nhập Niết Bàn. Tuy vậy, về ngày Đức Phật nhập Niết Bàn giữa hai truyền thống Phật giáo có chút khác biệt ( Nam truyền ngày 15 - 04 âm lịch, Bắc truyền ngày 15 - 02 âm lịch ), và Phật giáo thế giới chọn ngày 16 - 04 âm lịch để sang trang năm mới Phật lịch là theo Phật giáo Nam truyền.
666 / Không tin vào bói toán
Hai vợ chồng của bạn trước khi cưới nhau đã có chánh kiến, quyết không tin vào bói toán, tuổi tác hạp kỵ... thì nên giữ vững lập trường của mình. Còn việc bạn không may bị sẩy thai đứa con đầu lòng cũng là chuyện bình thường, nếu đó là bệnh thì chạy chữa theo hướng dẫn của bác sĩ. Không nên đi xem bói toán vì nếu sa vào tà kiến này thì chỉ tiền mất tật mang. Theo Chánh pháp của Đức Phật, các lễ “ giải đàn kim lâu ”, lễ “ tào quan, đám cưới âm ” là tín ngưỡng dân gian đều không có ích gì cho việc tăng phước, chuyển nghiệp hay chính xác là những việc cầu cúng ấy không thể can thiệp vào đời sống hạnh phúc hôn nhân hay việc sinh con đẻ cái như một số người nhẹ dạ cả tin.
Vì thế, vợ chồng bạn hãy tin tưởng sâu sắc vào nhân quả, nghiệp báo mà lo tu tạo phước điền, chuyển hóa ba nghiệp. Trước, các bạn nên đi khám bệnh, tìm hiểu thêm về sức khỏe sinh sản để chuẩn bị mang thai và sinh con. Kế đến, là Phật tử phải tuyệt đối nương theo Chánh pháp, nhân quả rất rõ ràng, nghiệp nhân do mình tạo thì nghiệp quả mình mang, nếu tạo nghiệp nhân thiện lành ắt hẳn sẽ có nghiệp quả tốt đẹp. Phải làm chủ đời mình bằng cách nâng cao hiểu biết để không rơi vào mê tín, tà kiến, đồng thời nỗ lực tu học, vun bồi công đức, sống thiện lành thì chắc chắn các bạn sẽ bình an và hạnh phúc.
667 / Băn khoăn về thời gian thọ giới
Về nguyên tắc, khi phát nguyện trước Tam bảo xin thọ trì giới Bát quan trai đúng theo giới luật là một ngày một đêm. Sở dĩ Đức Phật chế định thời gian khóa tu Bát quan trai cho hàng Phật tử kéo dài đến 24 giờ vì nếu ít hơn thì không đủ thời lượng để lắng đọng tâm tư nhằm chuyên tâm tu niệm, còn nếu dài hơn thì người cư sĩ sẽ không có thời gian, và nhất là không kham nổi nếp sống phạm hạnh.
Tuy vậy, ngày nay phần lớn các chùa vì không đủ điều kiện cho số đông hàng Phật tử lưu trú qua đêm nên phương tiện rút ngắn chỉ còn một ngày. Việc giảm bớt thời lượng của khóa tu Bát quan trai là do hoàn cảnh nhà chùa, đồng thời cũng phù hợp với thực tiễn đời sống bận rộn của hàng Phật tử. Vì thế, trên tinh thần phương tiện, Quý Tăng Ni chỉ tổ chức khóa tu trong một ngày, sáng thọ giới và đến chiều xả giới. Xả giới xong là khóa tu kết thúc, các Phật tử về nhà sinh hoạt bình thường.
Sau khi về nhà, một số Phật tử tinh tấn vẫn phát tâm giữ giới và tu niệm cho đến sáng hôm sau. Việc này hoàn toàn có tính tự giác, tự nguyện để vun bồi công đức chứ không bắt buộc. Còn đa phần thì sau khi kết thúc khóa tu về nhà sinh hoạt ăn uống bình thường, điều này không hề có bất cứ vi phạm nào đối với giới Bát quan trai cả.
668 / Không có ý niệm vãng sanh
Vãng sanh, trong ngữ nghĩa thông thường là sanh qua ( lên ) một thế giới khác tốt đẹp hơn. Trong giáo pháp Tịnh Độ, vãng sanh là sanh về thế giới Cực Lạc của Phật A Di Đà. Khi vãng sanh, dù chỉ ở bậc thấp nhất của Cực Lạc nhưng chắc chắn sẽ không còn thối đọa nên được vãng sanh cũng hàm nghĩa là thành tựu giải thoát.
Tại Việt Nam, Tịnh Độ tông khá phát triển nên ý niệm vãng sanh Tây Phương Cực Lạc tương đối phổ biến khiến cho bạn “ thấy hầu như những ai tu hành đều hướng tới mục đích cuối cùng là được vãng sanh ”. Thực ra, tu tập theo Phật giáo với nhiều công hạnh và mục đích thành tựu khác nhau, từ thấp đến cao theo thứ tự Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa, Bồ Tát thừa.
Theo như bạn cho biết thì bạn chỉ có thú hướng Nhân thừa, tức kiếp sau tiếp tục tái sanh làm người có phước báo, có duyên lành gặp Phật pháp để tu học. Muốn được như vậy thì pháp tu căn bản là quy y Tam Bảo và giữ gìn năm giới trọn vẹn song hành với việc thực thi các hạnh lành. So với những thắng duyên của một người được vãng sanh Cực Lạc thì người thú hướng Nhân thừa chắc chắn không thể sánh bằng. Tuy nhiên, đây là chí nguyện riêng của bạn nên được mọi người tôn trọng.
Khi đọc kinh hàng ngày đến đoạn “ nguyện vãng sanh Tây Phương Cực Lạc ”, dù bạn không có ý niệm vãng sanh nhưng thiết nghĩ bạn cứ nên đọc tụng bình thường cho trọn khoa nghi để được thập phần công đức. Bạn cứ đọc mà không sợ dối lòng, vì ngay cả những đoạn kinh khác bạn tụng đọc hàng ngày rất thành tâm, vô cùng hợp ý nhưng chưa hẳn bạn đã làm được.
Nên chúng tôi nghĩ rằng việc tụng đọc đó ( đọc mà không nguyện ) cũng tựa như bạn đang gieo vào tâm những hạt giống lành mà chẳng hề nghĩ đến hoa trái. Nhưng biết đâu một ngày nào đó hội đủ duyên lành thì những hạt giống ấy sẽ chuyển mình thức giấc rồi sẽ kết trái đơm hoa.
......
A Di Đà Phật!
Nam Mô Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo
Nam Mô Ta Bà Giáo Chủ Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
( Mỗi người hãy tự mình thấp đuốc lên mà đi, hãy tự làm hòn đảo cho chính mình. Tin chắc rằng : Phật, Pháp, Tăng là thường trụ, Phật luôn ở trạng thái Niết Bàn “ tuyệt đối “; Phật giác ngộ là tự mình, do trí “ vô sư, chứ không hải trí hữu sư “; Phật quan sát và nhìn cuộc đời, sự vận hành của tất cả các Pháp mà giác ngộ vì “ tất cả các Pháp đều là Phật Pháp “, “ Như Lai là nghĩa các Pháp như như “; “ Tất cả chúng sinh dù hữu tình hay vô tình đều có Phật tánh “; “ Tất cả các Pháp đều vận hành theo lý “ Duyên sinh “, “ Nhân qủa “, “ Phước nghiệp “……; Khi chiêm ngưỡng tượng Phật, Chúng ta cố gắng thường hình dung Đức Phật đản sanh ở Ca Tỳ La Vệ, Phật thành đạo ở Bồ Đề Đạo Tràng, Phật thuyết pháp ở Ba La Nại và Phật nhập diệt ở Câu Thi Na; đó chính là 04 động tâm, tức 04 điểm kích động tâm chúng ta, tác động căn lành chúng ta khiến chúng ta phát tâm đến với Phật. Nếu chúng ta không phát được tâm Bồ đề, đương nhiên không thể đến với Phật, không thể hiểu Phật và không thấy Phật ).
Nam Mô Tây Thiên ( Ấn Độ ), Đông Độ ( Trung Hoa ), An Nam ( Việt Nam ), Xiêm La ( Thái Lan ) Truyền Giáo Lịch Đại Tổ Sư Giác Linh.
Nam Mô Pháp :
+ Dhammacakkappavattanasutta - Bài Kinh Chuyển Pháp Luân
Nam Mô Tăng.
Nam Mô Phật. Nam Mô Pháp. Nam Mô Tăng.
Namo tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa.
Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn ấy, Đức A Ra Hán, Đức Phật Chánh Đẳng Giác.
1. Anuttaraṃ abhisambodhiṃ, sambujjhitvā tathāgato; paṭhamaṃ yaṃ adesesi, dhammacakkaṃ anuttaraṃ. Tathāgato anuttaraṃ abhisambodhiṃ sambujjhitvā yaṃ paṭhamaṃ anuttaraṃ dhammacakkaṃ adesesi.
( Sau khi đã giác ngộ Chánh trí tối thượng, đức Như Lai đã thuyết pháp luân vô thượng lần đầu tiên. ) Sau khi đã giác ngộ, Chánh giác trí tối thượng, Thế Tôn thuyết lần đầu, Về Pháp luân tối thượng.
2. Sammadeva pavattento, loke appaṭivattiyaṃ; yathākkhātā ubho antā, paṭipatti ca majjhimā. Loke appaṭivattiyaṃ sammadeva pavattento ubho antā majjhimā paṭipatti ca yathākkhātā.
( Khi đang chuyển vận (pháp ấy) chưa từng có trên đời, ( Đức Như Lai ) đã nói về hai phần cực đoan và phương pháp Trung đạo. ) Khi chuyển vận Pháp ấy, Chưa hề có trên đời, Thế Tôn đã nói về Hai cực đoan, trung đạo.
3. Catūsvāriyasaccesu catūsu, visuddhi-ñāṇa-dassanaṃ; desitaṃ dhammarājena, sammāsambodhi-kittanaṃ. Catūsvāriyasaccesu dhammarājena desitaṃ visuddhi-ñāṇa-dassanaṃ sammāsambodhi-kittanaṃ.
( Đấng Pháp vương đã nói về tri kiến thanh tịnh trong Tứ đế, xin tán dương sự chánh giác ấy. ) Bậc Pháp vương đã thuyết, Về tri kiến thanh tịnh, Trong bốn loại Thánh đế, Xin tán dương trí ấy.
4. Nāmena vissutaṃ suttaṃ, dhammacakkappavattanaṃ; veyyākaraṇa-pāṭhena, saṅgītan-tam-bhaṇāmase. ‘Dhammacakkappavattanaṃ’ nāmena veyyākaraṇapāṭhena saṅgītaṃ vissutaṃ suttaṃ, taṃ bhaṇāmase.
( Chúng ta hãy tụng đọc bài kinh nổi tiếng được kết tập bằng đoạn kinh ký thuyết với tên gọi " Dhammacakkappavattana " . ) Chúng ta hãy tụng đọc, Kinh nổi tiếng với tên, " Sự chuyển vận Pháp luân, " Được kết tập, truyền lại, Bằng đoạn kinh ký thuyết.
5. Evamme sutaṃ. Ekaṃ samayaṃ bhagavā bārāṇasiyaṃ viharati isipatane migadāye. Tatra kho bhagavā pañcavaggiye bhikkhū āmantesi - Dveme, bhikkhave, antā pabbajitena na sevitabbā. Katame dve? Yo cāyaṃ kāmesu kāmasukhallikānuyogo hīno gammo pothujjaniko anariyo anatthasaṃhito, yo cāyaṃ attakilamathānuyogo dukkho anariyo anatthasaṃhito. Ete kho, bhikkhave, ubho ante anupagamma majjhimā paṭipadā tathāgatena abhisambuddhā cakkhukaraṇī ñāṇakaraṇī upasamāya abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṃvattati.
( Tôi đã được nghe như vầy. Một thời/thuở nọ, đức Thế Tôn trú tại Vườn Nai, ở Isipatana, trong xứ Bārāṇasī. Rồi ở đó, Thế Tôn đã gọi nhóm 5 vị tỳ-khưu: ‘Này các tỳ-khưu, có hai cực đoan này mà bậc xuất gia không nên hành theo.’ Hai (cực đoan ấy) là gì? Sự say đắm trong phiền não dục lạc, thấp hèn, thường tình, thuộc phàm phu, không thuộc Thánh nhân, không đem đến lợi ích; và sự tự hành hạ khiến đau khổ, không thuộc Thánh nhân, không đem đến lợi ích. Này các tỳ-khưu, sau khi từ bỏ hai cực đoan ấy, phương pháp Trung đạo khiến tác thành mắt, tác thành trí mà được Như Lai chánh giác (sẽ) dẫn đến sự an tịnh, thắng trí, giác ngộ, và Níp-bàn. )
6. ‘Katamā ca sā, bhikkhave, majjhimā paṭipadā tathāgatena abhisambuddhā cakkhukaraṇī ñāṇakaraṇī upasamāya abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṃvattati? Ayameva ariyo aṭṭhaṅgiko maggo, seyyathidaṃ - sammādiṭṭhi sammāsaṅkappo sammāvācā sammākammanto sammāājīvo sammāvāyāmo sammāsati sammāsamādhi. Ayaṃ kho sā, bhikkhave, majjhimā paṭipadā tathāgatena abhisambuddhā cakkhukaraṇī ñāṇakaraṇī upasamāya abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṃvattati.
( Này các tỳ-khưu, gì là phương pháp Trung đạo ấy khiến tác thành mắt, tác thành trí mà được Như Lai chánh giác (sẽ) dẫn đến sự an tịnh, thắng trí, giác ngộ, và Níp-bàn? Chính là Thánh đạo này gồm tám phần, tức là: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, và chánh định. Này các tỳ-khưu, đây là phương pháp Trung đạo ấy khiến tác thành mắt, tác thành trí mà được Như Lai chánh giác (sẽ) dẫn đến sự an tịnh, thắng trí, giác ngộ, và Níp-bàn. )
7. ‘Idaṃ kho pana, bhikkhave, dukkhaṃ ariyasaccaṃ - jātipi dukkhā, jarāpi dukkhā, byādhipi dukkho, maraṇampi dukkhaṃ, appiyehi sampayogo dukkho, piyehi vippayogo dukkho, yampicchaṃ na labhati, tampi dukkhaṃ - saṃkhittena pañcupādānakkhandhā dukkhā honti. Idaṃ kho pana, bhikkhave, dukkhasamudayaṃ ariyasaccaṃ - yāyaṃ taṇhā ponobbhavikā nandirāgasahagatā tatratatrābhinandinī, seyyathidaṃ - kāmataṇhā, bhavataṇhā, vibhavataṇhā. Idaṃ kho pana, bhikkhave, dukkhanirodhaṃ ariyasaccaṃ - yo tassāyeva taṇhāya asesavirāganirodho cāgo paṭinissaggo mutti anālayo. Idaṃ kho pana, bhikkhave, dukkhanirodhagāminī paṭipadā ariyasaccaṃ - ayameva ariyo aṭṭhaṅgiko maggo, seyyathidaṃ - sammādiṭṭhi sammāsaṅkappo sammāvācā sammākammanto sammāājīvo sammāvāyāmo sammāsati sammāsamādhi.
( Lại nữa, này các tỳ-khưu, đây là Thánh đế về khổ - sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, gần những vật/người đáng ghét là khổ, xa những vật/người đáng yêu là khổ, muốn cái gì mà không được thì cũng là khổ - tóm lại, năm uẩn bị chấp thủ/ngũ thủ uẩn là khổ. Lại nữa, này các tỳ-khưu, đây là Thánh đế về nhân sanh Khổ - Trong ai còn tham ái dẫn đến tái sanh, câu hỷ/khởi sanh cùng với hỷ và tham, vui thích kiếp này kiếp kia, tức là - Dục ái, hữu ái và phi hữu ái. Lại nữa, này các tỳ-khưu, đây là Thánh đế về sự diệt khổ - Ai mà có sự đoạn diệt, ly tham hoàn toàn, sự xả ly, sự dứt bỏ, sự giải thoát và sự không chấp trước đối với tham ái ấy. Lại nữa, này các tỳ-khưu, đây là Thánh đế về phương pháp dẫn đến đoạn tận khổ - Chính là Thánh đạo này gồm tám phần, tức là: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, và chánh định. ).
.......
Nam Mô Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo
Nam Mô Ta Bà Giáo Chủ Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
( Mỗi người hãy tự mình thấp đuốc lên mà đi, hãy tự làm hòn đảo cho chính mình. Tin chắc rằng : Phật, Pháp, Tăng là thường trụ, Phật luôn ở trạng thái Niết Bàn “ tuyệt đối “; Phật giác ngộ là tự mình, do trí “ vô sư, chứ không hải trí hữu sư “; Phật quan sát và nhìn cuộc đời, sự vận hành của tất cả các Pháp mà giác ngộ vì “ tất cả các Pháp đều là Phật Pháp “, “ Như Lai là nghĩa các Pháp như như “; “ Tất cả chúng sinh dù hữu tình hay vô tình đều có Phật tánh “; “ Tất cả các Pháp đều vận hành theo lý “ Duyên sinh “, “ Nhân qủa “, “ Phước nghiệp “……; Khi chiêm ngưỡng tượng Phật, Chúng ta cố gắng thường hình dung Đức Phật đản sanh ở Ca Tỳ La Vệ, Phật thành đạo ở Bồ Đề Đạo Tràng, Phật thuyết pháp ở Ba La Nại và Phật nhập diệt ở Câu Thi Na; đó chính là 04 động tâm, tức 04 điểm kích động tâm chúng ta, tác động căn lành chúng ta khiến chúng ta phát tâm đến với Phật. Nếu chúng ta không phát được tâm Bồ đề, đương nhiên không thể đến với Phật, không thể hiểu Phật và không thấy Phật ).
Nam Mô Thường Tịch Quang Độ Thanh Tịnh Diệu Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na Phật.
Nam Mô Thập Đại Thị Giả, Tôn Giả, Thập Tam Đại Tỳ Kheo Ni, Một Ngàn Hai Trăm Năm Mươi Năm Vị Tôn Giả, Trưởng Lão, Đại Đức, Sáu Ngàn Vị Sa Di Ni, Hòa Thượng, Ni Trưởng, Sư, Thượng Tọa, Ni Sư, Đại Đức, Sư Cô, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Thức Xoa Ma Na, Sa Di, Sa Di Ni, Tứ Chúng, Tinh Xá, Đạo Tràng, Tăng Đoàn Của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Tăng Đoàn Của Các Đức Phật Khác Trong Ba Thời Qúa Khứ, Hiện Tại, Vị Lai.
Nam Mô Thuyết Pháp Đệ Nhất Phú Lâu Na Ni Đa La Ni Tử ( Purnamaitrayaniputra - Punnamantaniputta ) Tôn Giả.
Nam Mô Trì Giới Đệ Nhất Ưu Bà Ly ( Upali ) Tôn Giả.
+ Chúng con xin nguyện : “ Lấy Giới Luật Làm Thầy - Nghiêm Trì Giới Luật “
Nam Mô Giải Không Đệ Nhất Tu Bồ Đề ( Subhuti ) Tôn Giả.
+ Chúng con cố gắng giữ cho Thân, Khẩu, Ý được thanh tịnh, tỉnh thức trong từng sát na, hơi thở.
Nam Mô Luận Nghị ( Hùng Biện ) Đệ Nhất Đại Ca Chiên Diên ( Mahā Kaccāna, Maha Kaccayana, Katyayana ) Tôn Giả.
Nam Mô Phúc Lành Đầu Tiên ( s, p : Piṇḍola - Bharadvāja, 賓頭盧頗羅墮 ), Phúc Điền Đệ Nhất ) Tân Đầu Lô Phả La Đọa Xà ( Tân Đầu Lô Phả La Đọa Thệ ( 賓頭盧頗羅墮誓 ), Phả La Đọa ( s : Bharadvāja, 頗羅墮 ), Tân Đầu Lô ( 賓頭盧 ) hay Tân Đầu ( 賓頭 ); Trường Mi Tăng ( 長眉僧 ) hay Trường Mi Sa Môn ( 長眉沙門 ) ).
Nam Mô Thần Thông Đệ Nhất Đại Mục Kiền Liên ( Mahà Moggallàna ) Tôn Giả.
Nam Mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên ( Mahà Moggallàna ) Bồ Tát.
( ……Dù Cha ra sao vẫn luôn là đấng sinh thành - Dù Mẹ làm sao cũng luôn mang nặng đẻ đau ……).
Nam Mô Pháp : Nhất tâm đảnh lễ : Chúng con nguyện y giáo phụng hành :
Nam Mô Tăng.
Nam Mô Phật. Nam Mô Pháp. Nam Mô Tăng.
……
“ Hương các loại hoa thơm, Không ngược bay chiều gió, Nhưng hương người đức hạnh, Ngược gió khắp tung bay. Chỉ có bậc chân nhân, Tỏa khắp mọi phương trời. “
“ Hoa chiên đàn, già la; Hoa sen, hoa vũ quý; Giữa những hương hoa ấy; Giới hương là vô thượng “
“ Ít giá trị hương này; Hương già la, chiên đàn; Chỉ hương người đức hạnh; Tối thượng tỏa Thiên giới.”
……
+ Thập Lục A La Hán, La Hán ( 16 vị A La Hán : là những bậc : “Bậc đáng được tôn kính”, hay còn gọi là “Tôn giả” ý nói bậc đầy đủ cả tánh đức và trí tuệ : Sát tặc, Ứng cúng, Bất sanh. Tên Các Vị A La Hán đó là Các Ngài :
1 / Tân Đầu Lô Phả Đọa ( Pindolabharadvaja, A La Hán Tọa Lộc, A La Hán Cỡi Hươu ), xuất thân dòng Bà La Môn, là một đại thần danh tiếng của vua Ưu Điền. Theo Pháp Trụ Ký, xếp Ngài là vị A La Hán thứ nhất, thường cùng 1.000 vị A La Hán trụ ở Tây Ngưu Hóa Châu.
2 / Ca Nặc Ca Phạt Tha ( Kanakavatsa, A La Hán Hỷ Khánh ), còn gọi là Yết Nặc Ca Phược Sa. Theo Pháp Trụ Ký, Ngài là vị A La Hán thứ hai, thường cùng 500 vị A La Hán trụ tại nước Ca Thấp Di La ( Kashmir ).
3 / Ca Nặc Ca Bạt Ly Đọa Xà ( Kanakabharadvaja, A La Hán Cử Bát ). Ngài là vị Đại đệ tử được đức Phật giao phó giáo hóa vùng Đông Thắng Thần Châu. Theo Pháp Trụ Ký ngài là vị A La Hán thứ ba, thường cùng 600 vị A La Hán trú tại Đông Thắng Thần Châu.
4 / Tô Tần Đà ( Subinda, A La Hán Thác Tháp ). Theo Pháp Trụ Ký, ngài là vị A La Hán thứ tư, thường cùng 700 vị A La Hán phần nhiều trụ ở Bắc Câu Lô Châu.
5 / Nặc Cù La ( Nakula, A La Hán Tĩnh Tọa ). Theo Pháp Trụ Ký, Tôn giả Nặc Cù La được xếp vào vị trí A La Hán thứ năm, Ngài thường cùng 800 vị A La Hán trụ ở Nam Thiện Bộ Châu.
6 / Bạt Đà La ( Bhadra, A La Hán Qúa Giang ). Bạt Đà La còn gọi là Hiền, vì mẹ Ngài hạ sanh Ngài dưới cây Bạt Đà, tức là cây Hiền. Theo Pháp Trụ Ký, Ngài là vị A La Hán thứ sáu, thường cùng 900 vị A La Hán trụ tại Đam Một La Châu.
7 / Ca Lý Ca ( Kalica, A La Hán Kỵ Tượng ), trước khi xuất gia làm nghề huấn luyện voi. Theo Pháp Trụ Ký, Tôn giả Ca Lý Ca là vị A La Hán thứ bảy, cùng với 1.000 vị A La Hán luôn thường trụ tại Tăng Già Trà Châu ( Tích Lan ).
8 / Phạt Xà La Phất Đa La ( Vajraputra, A La Hán Tiểu Sư, A La Hán Đùa Sư Tử ). Theo Pháp Trụ Ký. Ngài là vị A La Hán thứ tám, thường cùng 1.100 vị A La Hán trụ ở châu Bát Thích Noa.
9 / Thú Bác Ca ( Jivaka, A La Hán Khai Tâm ). Theo Pháp Trụ Ký, Ngài Thú Bác Ca là vị A La Hán thứ chín, thường cùng 900 vị A La Hán trụ trong núi Hương Túy.
10 / Bán Thác Ca ( Panthaka, A La Hán Thám Thủ, Đại Lộ Biên Sanh, Ngài là anh của Tôn giả Châu Lợi Bàn Đặc ). Theo Pháp Trụ Ký, Tôn giả Bán Thác Ca là vị A La Hán thứ mười, Ngài thường cùng 1.100 vị A La Hán trụ ở Tất Lợi Dương Cù Châu.
11 / La Hầu La ( Rahula, A La Hán Trầm Tư ). Ngài là một trong Thập Đại Đệ Tử Của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngài là Mật Hạnh Đệ Nhất. Theo Pháp Trụ Ký, Ngài là vị A La Hán thứ mười một, thường cùng 1.100 vị A La Hán trụ ở Tất Lợi Dương Cù Châu.
12 / Na Già Tê Na ( Nagasena, Na Tiên, A La Hán Khoái Nhĩ ). Ngài sinh trưởng ở miền bắc Ấn Độ. Theo Pháp Trụ Ký, Ngài cũng là vị A La Hán thứ mười hai, thường cùng 1.200 vị A La Hán trụ trong núi Bán Độ Ba.
13 / Nhân Yết Đà ( Nhân Kiệt Đà, Angada, A La Hán Bố Đại ). Theo Pháp Trụ Ký, Ngài là vị A La Hán thứ mười ba, thường cùng 1.300 vị A La Hán trụ trong núi Quảng Hiếp.
14 / Phạt Na Bà Tư ( Vanavàsin, A La Hán Ba Tiêu ). Theo Pháp Trụ Ký, tôn giả Phạt Na Bà Tư là vị A La Hán thứ mười bốn, ngài và 1.400 vị A La Hán thường ở trong núi Khả Trụ.
15 / A Thị Đa ( Ajita, A La Hán Trường Mi ). Ngài thuộc dòng Bà La Môn nước Xá Vệ. Pháp Trụ Ký xếp Ngài là vị A La Hán thứ mười lăm, thường cùng 1.500 A La Hán trụ trong Linh Thứu Sơn.
16 / Chú Trà Bán Thác Ca ( Châu Lợi Bàn Đặc, Cullapatka, A La Hán Kháng Môn ). Ngài như một tấm gương cần cù nhẫn nại. Theo Pháp Trụ Ký, Tôn giả là vị A La Hán thứ mười sáu, cùng với 1.600 vị A La Hán thưòng trụ tại núi Trì Trục.
Ngoài ra, còn có hai vị A La Hán khác ( thường gọi chung là Thập Bát A La Hán ) :
17 / Nan Đề Mật Đa La ( Nandimitra , Khánh Hữu, A La Hán Hàng Long ). Ngài ra đời sau Phật diệt độ 800 năm, cư trú tại nước Sư Tử. Tôn giả Nan Đề Mật Đa La là vị A La Hán thứ 17, do mọi người tưởng nhớ công ơn ngài nói ra Pháp Trụ Ký.
18 / Đạt Ma Đa La ( Dharmatrata, A La Hán Phục Hổ ). Ngài ở núi Hạ Lan tỉnh Cam Túc.
......
Nam Mô Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo
Nam Mô Ta Bà Giáo Chủ Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
( Mỗi người hãy tự mình thấp đuốc lên mà đi, hãy tự làm hòn đảo cho chính mình. Tin chắc rằng : Phật, Pháp, Tăng là thường trụ, Phật luôn ở trạng thái Niết Bàn “ tuyệt đối “; Phật giác ngộ là tự mình, do trí “ vô sư, chứ không hải trí hữu sư “; Phật quan sát và nhìn cuộc đời, sự vận hành của tất cả các Pháp mà giác ngộ vì “ tất cả các Pháp đều là Phật Pháp “, “ Như Lai là nghĩa các Pháp như như “; “ Tất cả chúng sinh dù hữu tình hay vô tình đều có Phật tánh “; “ Tất cả các Pháp đều vận hành theo lý “ Duyên sinh “, “ Nhân qủa “, “ Phước nghiệp “……; Khi chiêm ngưỡng tượng Phật, Chúng ta cố gắng thường hình dung Đức Phật đản sanh ở Ca Tỳ La Vệ, Phật thành đạo ở Bồ Đề Đạo Tràng, Phật thuyết pháp ở Ba La Nại và Phật nhập diệt ở Câu Thi Na; đó chính là 04 động tâm, tức 04 điểm kích động tâm chúng ta, tác động căn lành chúng ta khiến chúng ta phát tâm đến với Phật. Nếu chúng ta không phát được tâm Bồ đề, đương nhiên không thể đến với Phật, không thể hiểu Phật và không thấy Phật ).
Nam Mô Thường Tịch Quang Độ Thanh Tịnh Diệu Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na Phật.
Nam Mô Thập Đại Thị Giả, Tôn Giả, Thập Tam Đại Tỳ Kheo Ni, Một Ngàn Hai Trăm Năm Mươi Năm Vị Tôn Giả, Trưởng Lão, Đại Đức, Sáu Ngàn Vị Sa Di Ni, Hòa Thượng, Ni Trưởng, Sư, Thượng Tọa, Ni Sư, Đại Đức, Sư Cô, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Thức Xoa Ma Na, Sa Di, Sa Di Ni, Tứ Chúng, Tinh Xá, Đạo Tràng, Tăng Đoàn Của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Tăng Đoàn Của Các Đức Phật Khác Trong Ba Thời Qúa Khứ, Hiện Tại, Vị Lai.
Nam Mô Thuyết Pháp Đệ Nhất Phú Lâu Na Ni Đa La Ni Tử ( Purnamaitrayaniputra - Punnamantaniputta ) Tôn Giả.
Nam Mô Trì Giới Đệ Nhất Ưu Bà Ly ( Upali ) Tôn Giả.
+ Chúng con xin nguyện : “ Lấy Giới Luật Làm Thầy - Nghiêm Trì Giới Luật “
Nam Mô Giải Không Đệ Nhất Tu Bồ Đề ( Subhuti ) Tôn Giả.
+ Chúng con cố gắng giữ cho Thân, Khẩu, Ý được thanh tịnh, tỉnh thức trong từng sát na, hơi thở.
Nam Mô Luận Nghị ( Hùng Biện ) Đệ Nhất Đại Ca Chiên Diên ( Mahā Kaccāna, Maha Kaccayana, Katyayana ) Tôn Giả.
Nam Mô Thần Thông Đệ Nhất Đại Mục Kiền Liên ( Mahà Moggallàna ) Tôn Giả.
Nam Mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên ( Mahà Moggallàna ) Bồ Tát.
( ……Dù Cha ra sao vẫn luôn là đấng sinh thành - Dù Mẹ làm sao cũng luôn mang nặng đẻ đau ……).
Nam Mô Tây Thiên ( Ấn Độ ), Đông Độ ( Trung Hoa ), An Nam ( Việt Nam ), Xiêm La ( Thái Lan ) Truyền Giáo Lịch Đại Tổ Sư Giác Linh.
Nam Mô Pháp : Nhất tâm đảnh lễ : Chúng con nguyện y giáo phụng hành :
+ Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo : ( đoạn 1 ) :
Nam Mô Tăng.
Nam Mô Phật. Nam Mô Pháp. Nam Mô Tăng.
Chúng con thành tâm tri ân công đức của Ngài Thái Hư Pháp Sư ( Giảng tại Hội Phật Giáo Chánh Tín ở Hán Khẩu - Trung Hoa ); Ngài Đại Sư Thật Xoa Nan Đà; Thầy Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Thượng Trí Hạ Thủ; Thầy Đại Lão Hòa Thượng Thượng Tâm Hạ Châu và Các Qúy Tôn Đức Khác :
Chương I
Nghiệp Quả Thế Gian và Xuất Thế Gian
Chia làm năm đoạn
1) Từ nơi nhơn mà nói đến quả :
Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Long vương rằng : " Tất cả chúng sanh vì tâm tưởng khác nhau nên tạo nghiệp khác nhau, do vậy có sự xoay vần trong các thú "
Bấy giờ là chỉ thời gian thuyết pháp. Thế Tôn là chỉ đức Phật, ở đời ai cũng tôn trọng nên gọi là Thế Tôn. Long Vương tức chỉ vị chúa tể ở Long cung, Phật kêu Long vương mà bảo. Tâm là tâm vương, Tưởng là 51 món tâm sở; Tâm vương, Tâm sở của chúng sanh ở trong tam giới cửu địa, năm thú, bốn loài sanh v.v... không đồng nhau, nên hành vi cũng không đồng, và chịu quả báo cũng không đồng. Cũng như vì nhân tâm không đồng nên bộ mặt chẳng ai giống ai; đây là hợp cả tâm vương và tâm sở, tóm tắt gọi là tâm; nếu phân biệt mà nói thì phải nói tâm và tưởng v.v. mới đủ. Ta nên biết: thân hành động, miệng nói phô, ý suy nghĩ, toàn là do tâm chủ động. Nên người ta nói : Có ở trong tức là hiện ra ở ngoài. Nếu hành động mà không có dụng công của tâm thời không thành thiện ác; các nhà luân lý học cũng thừa nhận như thế. Nhân vì tâm tưởng không đồng nên hành vi tạo tác không đồng, thành thử có nghiệp quả xoay vần trong năm thú.
Sao gọi là Xoay Vần ? Nghĩa là loài người tạo nghiệp lành thì sanh lên cõi trời; tạo nghiệp dữ thì đọa xuống địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh v.v… Nghiệp địa ngục súc sanh hết, nhờ tu thiện, trở lại sanh làm người, làm người nếu không tu thiện, trở lại đọa lạc; cứ thế xoay chuyển mãi, nên gọi là Xoay Vần. Theo từ ngữ của Phật tức là luân hồi. Đoạn này là từ nơi "nhơn" mà nói rõ " quả báo " vậy.
2) Từ nơi " quả " mà nói rõ " nhơn " :
Này Long vương ! Nhà ngươi có thấy trong hội này và các loài ở trong đại hải hình sắc chủng loại mỗi mỗi không đồng nhau không ? Tất cả đều do tâm tạo thiện hay ác của thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp mà gây nên cả.
Trước hết, Phật kêu Long vương khiến chăm chú nghe. Các loài tôm cá ở trong biển hình sắc chủng loại không đồng, quả báo cũng không đồng, toàn do tâm tưởng và hành vi không đồng gây nên. Chỗ xuất hiện của hành vi là thân, khẩu và ý đều có thiện hay ác, nên thành sai biệt. Đoạn này là dẫn " quả " để nói về " nhân ".
3 ) Nói Rõ Về Tướng Của Nhân :
A ) Quán Tâm Là Vô Sanh :
Tâm ấy không có hình sắc, không thể thấy được, chỉ là do các pháp nhóm họp hư huyễn không thật, rốt ráo không có chủ tể, không có ngã và ngã sở.
Tâm chỉ có danh từ mà không có hình sắc, mắt không thể nhìn được, tay không thể nắm được, chỉ vì vô thỉ đến nay gom góp các pháp hư huyển mà sanh khởi sự phân biệt, huân thành chủng tử, rồi khởi ra hiện hạnh. Ba cõi này đều là do phân biệt giả dối mà hiện khởi ra cả, rốt ráo không có chủ tể, không thể chỉ cái gì là " ngã " [ ta ] và " ngã sở " [ vật của ta ]. Nếu ai chấp tâm ấy có chủ tể tức thuộc về tà kiến đoạn thường của ngoại đạo.
B ) Quán Pháp Như Huyễn :
Tuy đều theo nghiệp, hiện ra không đồng; mà thật trong ấy không có người tác giả, nên tất cả các pháp, tự tánh như huyễn, đều là bất khả tư nghì.
Các pháp giả dối tức là chỉ cho các pháp tạo thành thân căn và khí giới như năm uẩn, bốn đại v.v. Các pháp ấy nhứt định không ai tạo thành, chỉ do nghiệp lực hiển hiện mà thôi; nghiệp lại do tâm tạo, tâm lại do các pháp mà sanh khởi, lần lữa nương nhau như huyễn, như hóa, sanh diệt vô thường, không có gì là chắc chắn trường tồn; vì không thể dùng tư tưởng nghị luận mà suy cứu, nên gọi là bất tư nghì. Ngày xưa có ngoại đạo chấp rằng : Vạn vật do vị Đại tự tại thiên tạo thành, ngày nay thì Gia giáo cũng cho rằng : Tất cả đều do Thượng đế tạo thành và làm chúa tể. Đối với Phật giáo, nói như thế là vọng chấp sai lầm. Đạo Phật nói rằng : Tất cả quả báo khổ hay vui đều do sự sai khác của mười nghiệp thiện hay không thiện mà thôi, nhưng phải biết tự tánh của nghiệp quả là như huyễn, vì do nhân duyên cấu hợp sanh diệt vô thường. Tức như kinh Bát nhã nói về Chơn Không, Pháp tướng duy thức nói về Giả Hữu, thật là bao trùm không sót vậy.
......